Bản án 25/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 25/2020/HS-ST NGÀY 17/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 11 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 26/2020/TLST-HS ngày 21/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2020/QĐXXST-QĐ ngày 04/11/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Quang V(tên gọi khác: không); sinh ngày: 21/5/1992 tại xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: thôn P, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Q, sinh năm 1959, trú tại thôn P, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh và con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1958 (đã chết); Vợ, con: chưa có; Anh chị em ruột: Có 05 người, bị cáo là con thứ 04; Tiền án, tiền sự: không. Về nhân thân: Ngày 17/4/2013, bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng 14 ngày về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 11/2013/HSST. Đến ngày 08/10/2014 Vtiếp tục phạm tội và bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 42 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” tại bản án số 32/2015/HSPT ngày 26/3/2015. Tổng hợp hình phạt của bản án trước là 54 tháng 07 ngày tù. Đã chấp hành án xong hình phạt ra trại ngày 15/7/2018. Hiện đã được xóa án tích. Bị khởi tố bị can ngày 05/8/2020. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại thôn P, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị T; sinh năm 1965; địa chỉ: Thôn T, xã L, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Lê Thị H; sinh năm 1960; địa chỉ: Tổ dân phố 11, thị trấn H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; (vắng mặt)

+ Chị Võ Thị H; sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn P, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; (có mặt)

- Người làm chứng:

+ Chị Đoàn Thị S; sinh năm 1985; địa chỉ: Xóm P, xã P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; (vắng mặt)

+ Chị Nguyễn Thị Hồng T sinh năm 1990; địa chỉ: Xóm 01, xã H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; (vắng mặt)

+ Chị Nguyễn Thị P; sinh năm 1983; địa chỉ: Xóm Yên Bình, xã L, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; (vắng mặt)

+ Chị Cao Thị Hồng N; sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn T, xã L, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 19 giờ 40 phút ngày 25/7/2020, Nguyễn Quang V, sinh năm 1992, trú tại thôn P, xã G điều khiển xe mô tô hiệu Nouvo màu xanh trắng, BKS 38B1- 054.71 (xe mượn của chị dâu là Võ Thị H) đến nhà chị Nguyễn Thị T, trú tại thôn T, xã L để chơi. Khi đến nơi thấy nhà không có ai nên Vdựng xe mô tô trước sân rồi mở cánh cửa nách, dùng điện thoại Samsung J6 màu đen của mình bật đèn flash để tìm tài sản. Khi đến gian phòng ngủ phát hiện có 04 bao tải bên trong đựng hạt vừng đen nên V vác 02 bao tải đặt phía sau yên xe mô tô, dùng dây cao su lấy ở khu vực phòng ngủ buộc lại còn 02 bao tải gác lên phía trước giữa xe rồi điều khiển đi theo hướng đường Hồ Chí Minh về thị trấn H. Khi đi đến khu vực gần trạm gác chắn đường sắt thuộc địa phận tổ dân phố 7, thị trấn H thì dây cao su bị đứt, Vdừng xe lại để 04 bao tải bên lề đường rồi điều khiển xe mô tô đến đại lý thu mua nông sản của chị Lê Thị H ở tổ dân phố 11, thị trấn H hỏi bán, nhưng chị H đóng cửa nên Vquay lại đưa 04 bao tải hạt vừng vào gửi lại trước sân trạm gác chắn đường sắt rồi đi về nhà. Đến khoảng 7 giờ ngày 26/7/2020, V tiếp tục điều khiển xe mô tô đến trạm gác chắn lấy 04 bao tải hạt vừng đen chở đến đại lý thu mua nông sản của chị Lê Thị H bán lấy số tiền 5.767.000đ.

Theo kết luận số 14/2020/KLĐG ngày 31/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện H xác định: 144,5kg vừng đen, loại đã được phơi khô trị giá 7.210.000đ.

Vật chứng thu giữ, xử lý:

- 01 bao tải màu da cam bên trong đựng hạt vừng màu đen, có khối lượng 37kg; 01 bao tải màu trắng, bên trong đựng hạt vừng màu đen, có khối lượng 34kg; 01 bao tải màu trắng, bên trong đựng hạt vừng màu đen, có khối lượng 36,5kg; 01 bao tải màu tải màu da cam, bên trong đựng hạt vừng màu đen, có khối lượng 37kg. Tổng khối lượng là: 144,5kg. Hiện đã trả lại cho bị hại.

- 01 chiếc xe mô tô hãng Yamaha, nhãn hiệu Nouvo màu xanh trắng, BKS 38B1 - 054.71, số khung CY132095, số máy 132100, xe đã qua sử dụng. Hiện đã trả lại cho chủ sở hữu.

- 01 điện thoại di động Samsung J6 màu đen, có số Imei 1: 354402101124824 và Imei 2: 354403101124822, bên trong gắn thẻ sim số 0363897485 thu giữ của Nguyễn Quang V. Hiện đã chuyển cho Chi cục THADS huyện H bảo quản, chờ xử lý theo quy định pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu về mặt dân sự.

Tại Bản Cáo trạng số 27/CT-VKS-HK ngày 14/10/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo Nguyễn Quang Vvề tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ về hành vi của mình như nội dung trên. Bị cáo không kêu oan, không có tranh luận gì và xin được giảm nhẹ hình phạt. Bị hại không có yêu cầu gì về mặt dân sự và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tại phiên tòa bị hại đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại được tài sản và không có ý kiến gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tổ bị cáo Nguyễn Quang Vvề tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Quang Vtừ 12 đến 15 tháng tù; Đề nghị HĐXX xử lý vật chứng và án phí HSST theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Ơ Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Quang V đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là phù hợp. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Do muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên vào khoảng 20 giờ ngày 25/7/2020, Nguyễn Quang Vđiều khiển xe mô tô hiệu Nouvo màu xanh trắng, BKS 38B1- 054.71 đến nhà chị Nguyễn Thị T ở thôn T, xã L lấy trộm 04 bao tải đựng hạt vừng đen có khối lượng 144,5kg trị giá 7.210.000đ. Việc thực hiện hành vi lấy trộm tài sản của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, điều 173 Bộ luật hình sự. Vì vậy cáo trạng của VKSND huyện H truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội; đã trực tiếp xâm hại đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, do đó cần phải xử lý hình sự để đảm bảo tính giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt. Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và tại phiên tòa bị hại đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét thấy bị cáo có đầy đủ năng lực và nhận thức, chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình, đã từng 02 lần phạm tội nhưng đã được xóa án tích. Bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội. Vì thế cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo là mẹ mất sớm, thiếu thốn về tình cảm, gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính, đang phải nuôi bố bị bệnh tật, sức khỏe yếu, đã có xác nhận của chính quyền địa phương và giá trị tài sản phạm tội không lớn, bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả do mình gây ra. Do đó cần xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các điều khoản, điểm, tội danh và biện pháp tư pháp, án phí là có căn cứ nên được HĐXX chấp nhận. Còn về mức hình phạt như đại diện Viện kiểm sát đề xuất là hơi cao so với hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Về biện pháp tư pháp: Về bồi thường thiệt hại: Người bị hại đã nhận lại tài sản bị mất và không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Chị Nguyễn Thị T đã nhận lại được 04 bao tải đựng hạt vừng màu đen, có tổng khối lượng 144,5kg. Chị Võ Thị H đã nhận lại 01 chiếc xe mô tô hãng Yamaha, nhãn hiệu Nouvo màu xanh trắng, BKS 38B1 - 054.71. Các vật chứng trên của vụ án cơ quan điều tra đã trả lại cho các chủ sở hữu đúng theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự nên HĐXX miễn xét.

- 01 điện thoại di động Samsung J6 màu đen thu giữ của Nguyễn Quang V. Đây là phương tiện bị cáo sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. (Tình trạng, đặc điểm theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/10/2020 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện H và Chi cục Thi hành án huyện H).

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang V 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Samsung J6 màu đen (Tình trạng, đặc điểm theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/10/2020 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện H và Chi cục Thi hành án huyện H).

4. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

493
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:25/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về