TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 25/2020/HS-PT NGÀY 17/02/2020 VỀ TỘI HIẾP DÂM
Trong các ngày 12, 17 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 166/2019/TLPT-HS ngày 01 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Phùng Hữu H;
Bị cáo kháng cáo đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số: 83/2019/HS-ST ngày 18/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
Bị cáo kháng cáo: Phùng Hữu H, sinh năm 1981 tại tỉnh Long An; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: Ấp T, xã S, huyện T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa: 02 12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Văn L và bà Nguyễn Thị N; vợ, con: không có; tiền án, tiền sự: Không có ; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 20 8 2019 cho đến nay; c mặt.
Bị hại: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1986; địa chỉ: Ấp M, xã S, huyện T, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
Đại diện hợp pháp bị hại: Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1954; địa chỉ: Ấp M, xã S, huyện T, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
Người bào chữa cho bị cáo:
1. Luật sư Đinh Thái H2; thu c Công ty luật B; Đoàn Luật sư tỉnh Tây Ninh; có mặt;
2. Luật sư Nguyễn Văn T2; thu c Công ty luật B; Đoàn Luật sư tỉnh Tây Ninh, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng tháng 9 năm 2017, bị cáo thường xuyên đến quán cà phê của nhà ông Nguyễn Văn M tại Ấp M, xã S, huyện T, tỉnh Tây Ninh để uống nước. Tại đây bị cáo gặp và nảy sinh tình cảm đối với chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1986 (cháu ông M) là người bị hạn chế năng lực nhận thức và điều khiển hành vi. Trong khoảng từ tháng 4 năm 2018, bị cáo nhiều lần chở chị T đến khu vực chòi rẫy cao su thuộc ấp B, xã S, huyện T, tỉnh Tây Ninh để giao cấu. Đến ngày 28/4/2019, bị cáo tiếp tục chở chị T đến chòi rẫy thu cấp T, xã S, huyện T, tỉnh Tây Ninh chung sống như vợ chồng và giao cấu với chị T nhiều lần; đến ngày 01/5/2019 ông M phát hiện và tố cáo hành vi của bị cáo.
Tại Cơ quan điều tra bị cáo đã khai nhận hành vi của bị cáo.
Kết luận giám định pháp y về tình dục số: 28 2019/TD ngày 14/6 2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Tây Ninh, kết luận chị Nguyễn Thị T: Màng trinh rách cũ vị trí 3 giờ, 4 giờ, 6 giờ, 9 giờ và hiện tại không phát hiện có thai.
Kết luận giám định pháp y về tâm thần số: 376/KL-VPYTW ngày 11/7 2019 của Việnộpháp y tâm thần trung ương Biên Hòa đối với chị Nguyễn Thị T kết luận:
+ Về y học: Trước, trong, sau khi bị hại và hiện nay, đương sự bị bệnh chậm phát triển tâm thần mức đ nhẹ (F70-ICD.10).
+ Về năng lực nhận thức và điều khiển hành vi: Tại thời điểm bị hại và hiện nay, đương sự bị hạn chế năng lực nhận thức và điều khiển hành vi.
Vật chứng: Không có.
Trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Văn M đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.
Bản án Hình sự sơ thẩm số: 83/2019/HS-ST ngày 18 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh đã quyết định:
1. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 141; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, 54, 38 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Phùng Hữu H 05 (năm) năm tù về tội “Hiếp dâm”; thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 20 8 2019.
2. Biện pháp tư pháp:
- Trách nhiệm dân sự: Ghi nhận người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo.
Ngày 29 tháng 10 năm 2019, bị cáo c đơn kháng cáo thừa nhận c hành vi giao cấu với bị hại; nhưng do bị hại và bị cáo c tình cảm với nhau nên không phải là hiếp dâm.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận trong thời gian từ tháng 4/2018 đến ngày vụ việc bị phát hiện; bị cáo giao cấu với chị Nguyễn Thị T tại địa điểm ấp 4, xã Suối Dây, huyện Tân Châu và ấp Trảng Ba Chân của xã Suối Ngô, huyện Tân Châu tỉnh Tây Ninh từ 7 đến 8 lần. Quá trình xét hỏi của Hội đồng xét xử, bị cáo thay đổi yêu cầu kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Đến phần hỏi của Luật sư; bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh đề nghị: Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo; căn cứ khoản 1 Điều 355, 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo không thực hiện quyền bào chữa. Luật sư trình bày luận cứ bào chữa:
+ Đến phần hỏi của Luật sư, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 05 năm tù là có tính chất nhân đạo.
+ Lời khai của bị cáo là trung thực.
+ Tuy nhiên vấn đề khoa học pháp lý có đáp ứng về cấu thành tội phạm theo khoản 1 Điều 141 của Bộ luật hình sự năm 2015. Điều kiện cần, người phạm tội phải dùng vũ lực; điều kiện đủ, phải trái ý muốn của nạn nhân. Theo hồ sơ, hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực không thể hiện dấu vết nào tại Kết luận giám định pháp y tình dục.
+ Pháp luật hiện nay chưa quy định cụ thể; bị hại có khả năng nhận thức được; tại Kết luận giám định tâm thần chậm phát triển mức độ nhẹ; theo Thông tư số 18/2015 của Bộ y tế, chậm phát triển tâm thần có thể phát triển.
+ Theo Luật Hôn nhân và Gia đình, người bị mất năng lực hành vi dân sự không bị cấm kết hôn; bị hại vẫn được kết hôn. Tại Biên bản xác minh Công an xã và các sư cô đã cho biết bị hại thường đi chùa hàng tuần, như vậy bị hại có nhận thức về tâm linh, mong muốn điều tốt đẹp đến với mình.
+ Luật sư trình bày các Điều 21, 22, 23, 24 của Bộ luật Hình sự; Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
+ Cấp sơ thẩm căn cứ Kết luận giám định tuyên bị cáo có tội là chưa đúng.
+ Cơ quan điều tra chưa lấy lời khai của bị hại, cho là bị hại khiếm khuyết; Tố tụng bỏ qua những thủ tục nhất định là sai.
+ Bị hại có những hành vi đồng thuận, chứng minh bị cáo không phạm tội hiếp dâm.
Đề nghị Tòa án c những kiến nghị đến Tòa án nhân dân Tối cao quy định rõ đối với hành vi như bị cáo.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo không trình bày.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại c đơn đề nghị xét xử vắng mặt; căn cứ Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại.
[1.2] Sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự vào ngày 12/8/2019; cơ quan tiến hành tố tụng không lấy lời khai của bị hại. Cấp sơ thẩm căn cứ vào lời khai của bị hại vào ngày 03/5/2019 tại Công an xã Suối Dây, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh làm chứng cứ để xét xử là chưa đúng trình tự, thủ tục tố tụng hình sự quy định. Cấp phúc thẩm căn cứ Điều 252, 353 của Bộ luật Tố tụng hình sự đã c văn bản đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh bổ sung chứng cứ lời khai của bị hại. Do đ cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
[1.3] Các hành vi, quyết định khác của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận:
[2.1] Do quen biết với bị hại từ tháng 4 2018; bị cáo thường xuyên rủ bị hại vào chòi rẫy nơi bị cáo ở cạo mủ cao su thuê, tại ấp B, xã S, huyện T, tỉnh Tây Ninh để quan hệ tình dục. Đến ngày 28/4 2019, bị cáo đưa bị hại đến chòi rẫy tại ấp T, xã S, huyện T, tỉnh Tây Ninh ở đây 4 ngày và quan hệ tình dục; đến ngày 01 5 2019 bị phát hiện. Lời khai của cáo phù hợp lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp lời khai của bị hại; Kết luận giám định về tình dục và tài liệu chứng cứ khác c trong hồ sơ vụ án.
[2.2] Căn cứ vào Kết luận giám định pháp y về tâm thần, bị hại bị bệnh tâm thần mức độ nhẹ, tại thời điểm thực hiện hành vi bị hạn chế năng lực nhận thức và điều khiển hành vi. Quá trình điều tra, bị cáo khai nhận biết được bị hại bị bệnh nhiễm chất độc da cam, hạn chế hiểu biết. Như vậy, bị cáo lợi dụng kém nhận thức của bị hại để giao cấu nhằm thõa mãn tình dục; bị hại không phản đối là do hạn chế nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình .
[2.3] Vụ án có tính chất rất nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; nhiều lần xâm phạm đến tình dục của bị hại bị khiếm khuyết về tr tuệ; làm ảnh hưởng đến sức khỏe và gây mất trật tự trị an tại địa phương.
[3] Do đó cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Hiếp dâm” với tình tiết định khung phạm tội từ 2 lần trở lên; theo điểm d khoản 2 Điều 141 của Bộ luật Hình là c căn cứ.
[4] Bị cáo kháng cáo cho rằng không phạm tội hiếp dâm là không có căn cứ; nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
[5] Đối với luận cứ của Luật sư về việc cơ quan điều tra chưa lấy lời khai của bị hại là vi phạm tố tụng; tuy nhiên vi phạm không nghiêm trọng, không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ch hợp pháp của bị hại và bị cáo; đã được cấp phúc thẩm bổ sung. Những luận cứ khác chưa phù hợp quy định của pháp luật; Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[6] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với bị cáo là phù hợp.
[7] Án phí: Theo khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ quốc Hội ngày 30 thàng 12 năm 2016; bị cáo kháng cáo không được chấp nhận, phải chịu số tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không c kháng cáo, kháng nghị đã c hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
3. Giữ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số: 83/2019/HS-ST ngày 18 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
4. Căn cứ điểm d, khoản 2, Điều 141; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, 38 của Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Phùng Hữu H 05 (năm) năm tù về tội “Hiếp dâm”; thời hạn chấp hành ánộphạt tù tính từ ngày 20 8 2019.
Tiếp tục tạm giam bị cáo theo quyết định của Hội đồng xét xử để bảo đảm thi hành án.
5. Biện pháp tư pháp:
- Trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.
6. Về án phí : Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016 UBTVQH14 ngày 30 12 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu số tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
7. Án phí phúc thẩm hình sự: Căn cứ khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ quốc Hội ngày 30 thàng 12 năm 2016; bị cáo phải chịu số tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án Dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
8. Bản ánộphúc thẩm c hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 25/2020/HS-PT ngày 17/02/2020 về tội hiếp dâm
Số hiệu: | 25/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về