Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 25/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 20 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1094/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 410/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 210/2020/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyễn Thị H, sinh năm 1995. (có mặt) Địa chỉ: Ấp GN, xã HKĐ, huyện Đ, tỉnh Long An.

Bị đơn: Nguyễn Thái A, sinh năm 1992. (có mặt) Địa chỉ: Ấp BL, xã TM, huyện Đ, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 08 tháng 5 năm 2020, nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày: Bà và ông Nguyễn Thái A chung sống với nhau năm 2017, có đăng kí kết hôn tại UBND xã HKĐ, huyện Đ, tỉnh Long An ngày 11/4/2019. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã với nhau về tình cảm và tiền bạc. Ông A nhiều lần hành hung bà. Đến tháng 8 năm 2020, ông A bỏ về Tân Mỹ sinh sống cho đến nay, mạnh ai nấy sống không quan tâm lẫn nhau. Cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, bà cố chịu đựng nhưng không làm thay đổi cuộc sống, tình nghĩa vợ chồng đã rạn nứt khó mong hàn gắn nên bà xin ly hôn với ông A.

Về con chung: Bà và ông A có con chung tên Nguyễn Ngọc Bảo V, sinh ngày 08/10/2019. Khi ly hôn, bà đồng ý giao con chung cho ông A nuôi.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Thái A trình bày tại bản tự khai ngày 11/12/2020: Ông thống nhất với lời trình bày của bà H về điều kiện kết hôn, thời gian chung sống. Vợ chồng có cãi vã và xô qua xô lại. Bà H có lời lẽ xúc phạm cha mẹ ông và đuổi hai cha con ông về Tân Mỹ. Do con còn nhỏ, ông còn thương vợ con, mâu thuẫn vợ chồng không có gì trầm trọng nên ông tha thiết đoàn tụ.

Về con chung: Ông và bà H có con chung tên Nguyễn Ngọc Bảo V, sinh ngày 08/10/2019. Nếu Tòa án giải quyết cho ly hôn, ông yêu cầu nuôi con chung, không yêu cầu bà H cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Bà H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông A, hiện đang sinh sống tại huyện Đ, tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện Đ thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]. Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn có mặt, Tòa án tiến hành xét xử vụ án là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.3]. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định. Bà H có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên đưa vụ án ra xét xử.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà H, ông A chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã HKĐ, huyện Đ, tỉnh Long An ngày 11/4/2019 nên hôn nhân giữa ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về yêu cầu ly hôn: Trong quá trình chung sống, bà H cho rằng quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã với nhau về tình cảm và tiền bạc. Ông A nhiều lần hành hung bà. Đến tháng 8 năm 2020, ông A bỏ về Tân Mỹ sinh sống cho đến nay, mạnh ai nấy sống không quan tâm lẫn nhau. Cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, bà cố chịu đựng nhưng không làm thay đổi cuộc sống, tình nghĩa vợ chồng đã rạn nứt khó mong hàn gắn nên bà xin ly hôn với ông An. Ông A cho rằng vợ chồng có cãi vã và xô qua xô lại. Bà H có lời lẽ xúc phạm cha mẹ ông và đuổi hai cha con ông về Tân Mỹ. Do con còn nhỏ, ông còn thương vợ con, mâu thuẫn vợ chồng không có gì trầm trọng nên ông tha thiết đoàn tụ. Xét thấy, các đương sự đều thừa nhận vợ chồng có cãi vã và xô qua xô lại. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 8 năm 2020 cho đến nay. Tại phiên tòa hôm nay, bà H kiên quyết ly hôn. Ông A không đưa ra được biện pháp để vợ chồng hàn gắn. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó xét yêu cầu ly hôn của bà H đối với ông A là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung: Quá trình chung sống, bà H và ông A có con chung tên Nguyễn Ngọc Bảo V, sinh ngày 08/10/2019. Khi ly hôn, ông A yêu cầu nuôi con chung. Bà H đồng ý giao con chung cho ông A nuôi dưỡng, thỏa thuận này phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5]. Về cấp dưỡng nuôi con: Ông A không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về tài sản chung và nợ chung: Bà H và ông A đều xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Bà H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H đối với ông Nguyễn Thái A về việc “Ly hôn”.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Thái A.

2. Về con chung: Buộc bà H có trách nhiệm giao con chung tên Nguyễn Ngọc Bảo V, sinh ngày 08/10/2019 cho ông A nuôi dưỡng; Bà H không phải cấp dưỡng nuôi con, do ông A không có yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Bà H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0006543 ngày 12/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Long An để thi hành. Bà H đã nộp đủ.

Án xử sơ thẩm, công khai, nguyên đơn, bị đơn có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:25/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về