TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HOÀ BÌNH, TỈNH HOÀ BÌNH
BẢN ÁN 25/2020/DS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ KIỆN TRANH CHẤP THỪA KẾ
Mở phiên toà công khai tại trụ sở Toà án thành phố Hòa Bình vào các ngày 04,21,28 tháng 9 năm 2020, xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 08/2017/TLST-DS ngày 02/3/2017, giữa các đương sự sau:
I/ Nguyên đơn:
1/Ông Nguyễn Thanh D, sinh năm 1956; Địa chỉ: thôn Mu, thị trấn Đà Bắc, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình.
2/ Bà Nguyễn Thị D1, sinh năm 1953; Địa chỉ: xóm Miều, xã Trung Minh, thành phố Hòa Bình.
3/ Anh Nguyễn Thanh B và mẹ đẻ là Đinh Thị L, sinh năm 1960; Địa chỉ: ấp 7, xã An Phước huyện Long Thành, Đồng Nai.
4/ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1963; Địa chỉ: xóm Trung, xã Trung Minh, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
5/Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1965; Địa chỉ: thị trấn Kỳ Sơn, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình.
6/ Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1969; Địa chỉ: ấp 7, xã An Phước huyện Long Thành, Đồng Nai.
* Luật sư bảo vệ quyền lợi cho các nguyên đơn: Ông Trần Dũng T – Trưởng văn phòng luật sư Trần Dũng T – Đoàn luật sư tỉnh Hòa Bình;
II/ Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1961; ĐKHKTT: xóm Miều, xã Trung Minh, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình;
* Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Văn Tr, ĐKHKTT:
Thôn 7, Phú Cát, Quốc Oai, Hà Nội;
III/ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Vợ và các con, các thành viên khác trong gia đình ông Nguyễn Văn Th gồm:
- Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1962;
- Chị Nguyễn Thị L1, sinh năm 1988;
- Anh Nguyễn Tiến H1, sinh năm 1992;
Cùng ĐKNKTT tại xóm Trung, xã Trung Minh, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
- Các thành viên khác trong gia đình ông Nguyễn Văn Th, bà Nguyễn Thị L.
2/ Ủy ban nhân dân thành phố Hòa Bình thông qua người đại diện theo pháp luật là Chủ tịch UBND thành phố;
3/ Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố Hòa Bình thông qua người đại diện theo pháp luật là Giám đốc chi nhánh;
4/ Tập đoàn Geleximco, địa chỉ: 36 Đường H, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội và chi nhánh tập đoàn tại Hòa Bình là: Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội tại Hòa Bình, Địa chỉ: Phường Phương Lâm, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình;
* Đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Quốc H2, sinh năm 1974, địa chỉ: Tổ dân phố Lò, phường Tây Mỗ, quận Nam Từ Liên, thành phố Hà Nội;
Tại phiên tòa có mặt Ông Nguyễn Thanh D, luật sư Trần Dũng Tiến, ông Nguyễn Văn Th, ông Nguyễn Văn Tr, anh Nguyễn Tiến H1, ông Nguyễn Văn C, ông Nguyễn Quốc H2.
Các nguyên đơn Nguyễn Thị D1, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thanh B, Đinh Thị L vắng mặt nhưng đã ủy quyền cho ông Nguyễn Thanh D tham gia tố tụng;
Các đương sự khác vắng mặt mặt dù đã được triệu tập phiên tòa hợp pháp nhiều lần.
NỘI DUNG VỤ ÁN
{1}Theo đơn khởi kiện và quá trình cung cấp chứng cứ, các nguyên đơn cho rằng:
Ông Nguyễn Văn D sinh năm 1920, bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1930 là bố mẹ đẻ của bà Nguyễn Thị D1, ông Nguyễn Thanh D, ông Nguyễn Văn Th1, bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Văn C, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn Th.
Từ năm 1970 đến năm 1972, ông D, bà B khai hoang được thửa đất số 34, 35 tờ bản đồ 08 tại xóm Miều, xã Trung Minh, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình với tổng diện tích còn lại cho đến nay là 8.366m2 . Đất sử dụng ổn định không có tranh chấp. Ngày 06/02/1980, ông D chết; ngày 02/3/2009 bà B chết nhưng không để lại di chúc và chưa phân chia đất này cho ai. Đến năm 2016 khi có dự án sân golf Trung Minh và đất thuộc diện thu hồi, bồi thường giải phóng mặt bằng thì ông Nguyễn Văn Th cho rằng, gia đình ông Th đã được UBND huyện Kỳ Sơn trước đây (Nay là thành phố Hòa Bình) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 34,35 nêu trên, do đó đây là tài sản của gia đình ông Th, không đồng ý chia cho ai. Khi đó, các thành viên khác trong gia đình mới biết, ông Th đã tự ý kê khai, lập hồ sơ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà cha mẹ để lại, nên làm đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật; Trường hợp khởi kiện chia thừa kế đã hết thì đề nghị chia tài sản thuộc sở hữu chung theo quy định của Pháp luật.
{2} Quá trình cung cấp chứng cứ và tại phiên tòa, bị đơn Nguyễn Văn Th và người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Văn Tr cho rằng thửa đất số 34,35 tờ bản đồ 08 tại xóm Miều, xã Trung Minh, thành phố Hòa Bình là đất do ông Th tự khai hoang mà có, không phải đất của cha mẹ (Ông D, bà B) để lại, do đó không phải là di sản thừa kế; không chấp nhận chia thừa kế theo pháp luật như các nguyên đơn yêu cầu.
{3} Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Nguyễn Thanh D đại diện cho các đồng nguyên đơn và luật sư bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn giữ nguyên quan điểm đề nghị Tòa chia thừa kế theo pháp luật nhưng đề nghị xem xét chia cho ông Nguyễn Văn Th phần nhiều hơn vì có công nuôi dưỡng cha mẹ. Phần còn lại (Sau khi đã trừ đi phần chia cho ông Th) đề nghị chia đều cho các đồng thừa kế khác. Riêng ông Nguyễn Văn Th1 (Con trai của ông D, bà B) đã chết năm 2004, có vợ là Đinh Thị L và con trai là Nguyễn Thanh B (Tên gọi khác: Nguyễn Văn Bình) nên đề nghị xác định anh Bình là người thừa kế thế vị của ông Thanh và chia cho anh Bình một phần bằng với phần di sản chia cho các ông bà D1, D, T, C, H. Đề nghị giao toàn bộ thừa 34,35 tờ bản đồ 08 tại xóm Miều, xã Trung Minh cho ông Nguyễn Thanh D quản lý, sử dụng; ông D có nghĩa vụ thanh toán cho các đồng thừa kế khác phần di sản họ được hưởng bằng tiền mặt.
{4}Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Th, ông Trịnh giữ nguyên quan điểm đã nêu và bổ sung thêm hai yêu cầu là:
- Yêu cầu nhập vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình đã thụ lý số 30/2019/TLST-DS ngày 17/4/2019 (Nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Th, bị đơn là tập đoàn Geleximco) với vụ án này để giải quyết theo thẩm quyền;
- Áp dụng quy định về thời hiệu quy định tại điều 623 BLDS năm 2015 khi xem xét yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn đối với phần di sản ông Nguyễn Văn D để lại, vì đến nay đã quá 30 năm kể từ thời điểm ông D chết.
{5}Tập đoàn Geleximco đề nghị Tòa án giải quyết vụ việc theo pháp luật và cứ phân chia di sản thừa kế cho các đồng thừa kế theo pháp luật. Khi Tòa tuyên giao đầt cho ai quản lý, sử dụng thì tập đoàn Geleximco sẽ thỏa thuận bồi thường D án đối với người đó. Đề nghị không nhập vụ án dân sự sơ thẩm đã thụ lý số 30/2019/TLST-DS ngày 17/4/2019 với vụ án này.
{6}Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát cho rằng những người liên quan đã được triệu tập hợp pháp nhiều lần, nhưng vắng mặt, nay đề nghị áp dụng các điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt các đương sự này. Về nội dung đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, chia thừa kế theo pháp luật cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất và người thừa kế thế vị, có xem xét đến công sức đóng góp của ông Th; Kiến nghị UBND thành phố Hòa Bình hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ ông Nguyễn Văn Th.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
{7}Về tố tụng: Những người liên quan vắng mặt đều đã được Tòa tống đạt giấy triệu tập phiên tòa hợp pháp nhiều lần. Do đó căn cứ các điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự, tòa xét xử vắng mặt các đương sự này.
Thấy rằng:
{8}Ông Nguyễn Thanh D và người bảo vệ cho các nguyên đơn (Luật sư Trần Dũng Tiến) cho rằng việc ông Nguyễn Văn Th kê khai từ năm 1972, ông Th đã khai hoang được thửa đất số 34, 35 tờ bản đồ 08 tại xóm Miều, xã Trung Minh, thành phố Hòa Bình là không đúng sự thật, vì thời điểm đó, ông Th mới trên 10 tuổi, còn quá nhỏ để làm được việc này. Thời điểm trước năm 1991, ông Th tự ý kê khai hồ sơ, đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không bàn bạc, thống nhất ý kiến với những người cùng hàng thừa kế khác là trái pháp luật, do vậy ông Th không có quyền sử dụng đất này, dù đã được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất. Ông D, ông T cũng cho rằng, trên thực tế, từ năm 1970 đến năm 1972, ông Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị B (Bố mẹ của các đương sự) khai hoang thửa đất số 34,35 tờ bản đồ 08 tại xóm Miều, xã Trung Minh, đến nay diện tích còn lại là 8.366 m2 và sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp. Nội dung này đã được hàng xóm và những người biết việc có quan hệ gần gũi với các đương sự xác nhận. Năm 1980, ông D chết, Bà B quản lý đất đến năm 2009 thì bà B chết; Hai ông bà chưa chia đất này cho ai và cũng không để lại di chúc phân chia đất trên cho ai, do đó đề nghị xác định thửa đất số 34, 35 nêu trên là di sản thừa kế của ông D, bà B để lại và chia cho các đồng thừa kế theo pháp luật. Do ông Nguyễn Văn Th1 (Con trai của ông D, bà B) đã chết và có 01 con trai là Nguyễn Thanh B (Nguyễn Văn Bình), nên đề nghị xác định anh Bình là người thừa kế thế vị của ông Thanh (Theo điều 652 Bộ luật dân sự năm 2015). Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát cũng có quan điểm như trên.
Xét quan điểm của ông Nguyễn Thanh D, Luật sư Trần Dũng T và đại diện Viện Kiểm sát là có căn cứ, được chấp nhận.
{9} Ông Nguyễn Thanh D, Luật sư Trần Dũng T cho rằng, để bảo đảm quyền lợi của những người thừa kế khác, không làm suy giảm giá trị của di sản thừa kế, cần giao thửa đất số 34, 35 tờ bản đồ 08 xóm Miều, xã Trung Minh cho ông Nguyễn Thanh D sử dụng toàn bộ; Ông D có nghĩa vụ thanh toán cho những người khác phần giá trị di sản mà họ được hưởng bằng tiền. Quan điêm trên có căn cứ, nên được chấp nhận.
{10} Ông Nguyễn Thanh D (Đại diện cho các đồng nguyên đơn khác ) và Luật sư Trần Dũng T cho rằng ông Nguyễn Văn Th có công nhiều hơn trong việc chăm sóc cha mẹ, nên tự nguyện đề nghị chia cho ông Th phần nhiều hơn. Phần di sản còn lại, sau khi đã trừ đi phần chia cho ông Th, đề nghị chia cho ông D, bà D1, bà Thành, ông Công, bà Hồng và anh Bình mỗi người một phần bằng nhau. Xét quan điểm trên là phù hợp pháp luật và thực tế, nên chấp nhận.
{11} Ông Nguyễn Văn Th và người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Văn Tr cho rằng, theo quy định tại điều 623 BLDS năm 2015, thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với phần di sản ông Nguyễn Văn D để lại đã hết, nên đề nghị Tòa áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu chia di sản của ông D.
Ông Nguyễn Thanh D, luật sư Trần Dũng T cho rằng: Ông Nguyễn Văn D chết năm 1980, do đó thời hiệu khởi kiện chưa hết (Vấn đề này đã được hướng dẫn cụ thể tại công văn số 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 của Tòa án nhân dân tối cao). Đại diện Viện kiểm sát cũng có quan điểm tương tự.
Ông Nguyễn Thanh D đại diện cho các đồng nguyên đơn và Luật sư Trần Dũng Tiến, tập đoàn Geleximco tự nguyện không yêu cầu xem xét giải quyết lại đối với số tiền tập đoàn Geleximco đã bồi thường (Bồi thường tài sản trên đất) cho gia đình ông Nguyễn Văn Th trước đây. Sự tự nguyện hợp pháp, được chấp nhận.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính thì từ ngày 01-01-2017, Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp về thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế. Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990. Do vậy, thời hiệu khởi kiện chưa hết.
{12} Ông Nguyễn Văn Th và ông Nguyễn Văn Tr còn yêu cầu nhập vụ án dân sự sơ thẩm số 30/2019/TLST-DS ngày 17/4/2019 với vụ án này để giải quyết theo thẩm quyền. Phía nguyên đơn và tập đoàn Geleximco cho rằng: Tài sản trên thửa đất 34,35 là tài sản do ông Nguyễn Văn Th tạo lập mà có, không phải di sản thừa kế do ông D, bà B để lại (Bản thân ông Th, ông Trịnh cũng khẳng định như trên); Ông Th cho rằng: Tập đoàn Geleximco trong quá trình thi công và vận hành sân golf Trung Minh đã làm thiệt hại đến tài sản đó, nên khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại; đây là tranh chấp độc lập, không liên quan đến vụ án tranh chấp thừa kế, đề nghị không nhập. Đại diện Viện kiểm sát cũng có quan điểm tương tự.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong quá trình thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa sơ thẩm (Phần chuẩn bị bắt đầu phiên tòa, tranh tụng, tranh luận) ông Th, ông Trịnh không yêu cầu nhập vụ án. Chỉ đến khi kết thức phần tranh luận, tòa tuyên nghị án thì ông Th, ông Trịnh mới yêu cầu nhập vụ án. Do đó, căn cứ điều 42, điều 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự, không chấp nhận yêu cầu nhập vụ án nêu trên.
{13} Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Tòa kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ ông Nguyễn Văn Th. Đề nghị trên có căn cứ, được chấp nhận.
{14} Nguyên đơn, bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần giá trị di sản họ được hưởng theo quy định của pháp luật.
Ông Nguyễn Thanh D đã nộp tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, nay tự nguyện chịu toàn bộ và không yêu cầu giải quyết, nên không đề cập.
Bởi các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các điều 623, 649, 650, 651, 652 , 660, 688 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội; Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990; khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 và Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19- 10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án, nay tuyên xử như sau:
I/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn: Nguyễn Thanh D, Nguyễn Thị D1, Nguyễn Thanh B (Tức Nguyễn Văn Bình), Đinh Thị L, Nguyễn Thị T, Nguyễn Văn C, Nguyễn Thị H; Chia di sản thừa kế do ông Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị B để lại như sau:
1. Chia cho ông Nguyễn Văn Th 30% giá trị di sản thừa kế quy đổi bằng tiền như sau:
120m2 đất ở x 3.000.000 đồng/m2 = 360.000.000 đồng;
2.389,8 m2 đất vườn, ao x 200.000 đồng/m2 = 477.960.000 đồng;
Tổng cộng Ông Th được hưởng là 837.960.000 đồng (Tám trăm ba mươi bảy triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng) 2. Đối với 70% di sản thừa kế còn lại, (280m2 đất ở x3.000.000 đồng/m2 = 840.000.000 đồng; 5.576,2m2 đất vườn, ao x 200.000 đồng/m2 =1.115.240.000 đồng) nay chấp nhận sự tự nguyện của các nguyên đơn, chia đều cho các nguyên đơn mỗi người một phần bằng nhau như sau:
- Ông Nguyễn Thanh D được hưởng 325.873.000 đồng (Ba trăm hai mươi lăm triệu tám trăm bảy mươi ba nghìn đồng);
- Bà Nguyễn Thị D1 được hưởng 325.873.000 đồng (Ba trăm hai mươi lăm triệu tám trăm bảy mươi ba nghìn đồng);
- Ông Nguyễn Thanh B (Tức Nguyễn Văn B) được hưởng: 325.873.000 đồng (Ba trăm hai mươi lăm triệu tám trăm bảy mươi ba nghìn đồng);
- Bà Nguyễn Thị T được hưởng: 325.873.000 đồng (Ba trăm hai mươi lăm triệu tám trăm bảy mươi ba nghìn đồng);
- Ông Nguyễn Văn C được hưởng: 325.873.000 đồng (Ba trăm hai mươi lăm triệu tám trăm bảy mươi ba nghìn đồng);
- Bà Nguyễn Thị H được hưởng 325.873.000 đồng (Ba trăm hai mươi lăm triệu tám trăm bảy mươi ba nghìn đồng);
3. Giao cho ông Nguyễn Thanh D quyền quản lý, sử dụng đối với toàn bộ thửa đất số 34,35 tờ bản đồ 08 tại xóm Miều, xã Trung Minh, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
Ông Nguyễn Thanh D có nghĩa vụ thanh toán cho ông Nguyễn Văn Th 837.960.000 đồng (Tám trăm ba mươi bảy triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng) đã tuyên trong quyết định này.
Ông Nguyễn Thanh D có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị D1, ông Nguyễn Thanh B, bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Văn C, bà Nguyễn Thị H mỗi người 325.873.000 đồng (Ba trăm hai mươi lăm triệu tám trăm bảy mươi ba nghìn đồng) như đã tuyên trong quyết định này.
4. Kiến nghị UBND thành phố Hòa Bình; Cơ quan có thẩm quyền hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Kỳ Sơn (Trước đây) cấp cho hộ ông Nguyễn Văn Th (Cấp ngày 27/9/2000; vào sổ cấp giấy chứng nhận số 00383QSDĐ/KS).
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Nguyễn Văn Th phải chịu 37.138.800 đồng;
- Các đương sự Nguyễn Thanh D, Nguyễn Thị D1, Nguyễn Thanh B (Tức Nguyễn Văn Bình), Nguyễn Thị T, Nguyễn Văn C, Nguyễn Thị H mỗi người phải chịu 16.293.600 đồng.
Ông Nguyễn Thanh D được đối trừ 1.000.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Hòa Bình, theo biên lai thu tiền số 0003036 ngày 21/02/2017.
6.Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Đương sự vắng mặt được kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận kết quả xét xử.
Án xử công khai sơ thẩm.
Bản án 25/2020/DS-ST ngày 28/09/2020 về kiện tranh chấp thừa kế
Số hiệu: | 25/2020/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về