Bản án 25/2019/HS-PT ngày 07/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴN G

BẢN ÁN 25/2019/HS-PT NGÀY 07/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 07 tháng 01 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2018/TLPT-HS ngày 03 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn Minh P, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 45/2018/HS-ST ngày 26/9/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Minh P, sinh năm 1980 tại Bình Định. Nơi cư trú: thôn T3, xã A2, huyện A1, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 05/12; con ông Nguyễn Ngọc Nh - sinh năm: 1937; con bà Hà Thị B2 - sinh năm 1944; có vợ: Nguyễn Thị Nh1 - sinh năm: 1983 và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: không. 

Nhân thân: ngày 30/5/2016 bị Tòa án nhân dân huyện A1 xử phạt về tội “Đánh bạc” với mức hình phạt 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng. Chấp hành xong ngày 30/11/2017 tại xã A2, huyện A1.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/12/2017 đến ngày 01/3/2018; bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Ngoài ra còn có 05 bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, không bị kháng nghị.

- Bị hại:

1. Ngô Thị Mỹ T - sinh năm 1989, vắng mặt.

Trú tại: thôn A, thị trấn P1, huyện P1, Bình Định.

2. Trương Thị G- sinh năm 1974, vắng mặt. Trú tại: thôn X, xã M, huyện P1, Bình Định.

3. Lê Việt T1 - sinh năm 1986, vắng mặt. Trú tại: thị trấn P1, huyện P1, Bình Định

4. Đỗ Đức C - sinh năm 1980, vắng mặt. Trú tại: xã M1, huyện P1, Bình Định.

5. Trần Thị B - sinh năm 1958, vắng mặt.

Trú tại: Hòa Hội, xã Cát Hanh, huyện Phù Cát, Bình Định.

6. Dương Thị Hương G1 - sinh năm 1980, vắng mặt. Trú tại: KV.Khối 4, thị trấn T4, huyện H2, Bình Định.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Đoàn Thăng L - sinh năm 1988, vắng mặt. Trú tại: thôn X1, xã A3, huyện A1, Bình Định.

2. Phạm Thị Kiều O - sinh năm 1981, vắng mặt. Trú tại: thôn X2, xã A4, huyện H3, Bình Định.

3. Đặng Thị L1- sinh năm 1975, vắng mặt.

Trú tại: thôn H4, xã A5, huyện H3, Bình Định

4. Lê Văn B1 - sinh năm 1960, vắng mặt.

Trú tại: Thôn T3, xã A2, huyện A1, Bình Định.

5. Nguyễn Văn N - sinh năm 1979, vắng mặt. Trú tại: thôn B3, xã A6, huyện H3, Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Các bị cáo Lê Thanh V, Huỳnh Xuân L2, Nguyễn Đình T2, Nguyễn Minh P, Đặng Ngọc H1, Đặng Ngọc L3 rủ nhau đi tìm nhà ai không có người, lén lút đột nhập vào nhà để chiếm đoạt tài sản; trong đó bị cáo Nguyễn Minh P đã tham gia 02 vụ, cụ thể như sau:

- Vụ thứ nhất: ngày 05/01/2016 Lê Thanh V rủ Đặng Ngọc L3, Nguyễn Minh P đi trộm cắp tài sản. L3 điều khiển xe mô tô Sirius chở Lê Thanh V; còn Nguyễn Minh P điều khiển xe mô tô Wave đi từ huyện A1 đến thôn A, thị trấn P1, huyện P1 thì phát hiện nhà của chị Ngô Thị Mỹ T đóng cửa không có người trông giữ. Cả nhóm dừng xe lại, P đứng cảnh giới, còn V chở L3 đi theo đường đất rồi vòng ra phía sau nhà, L3 lén lút cầm báy sắt cạy cửa đột nhập vào nhà T lục lọi tủ nhựa lấy được 20.000.000 đồng chia nhau tiêu xài.

- Vụ thứ hai: khoảng 6 giờ 30’ ngày 06/01/2016, Lê Thanh V, Đặng Ngọc L3, Nguyễn Minh P tiếp tục điều khiển 02 xe mô tô đến thôn X, xã M, huyện P1, tỉnh Bình Định thì phát hiện nhà bà Trương Thị G khóa cửa nên dừng xe. P, V cảnh giới, L3 trèo qua hàng rào, cầm báy sắt cạy cửa phía sau nhà, vào bên trong thấy có két sắt nên gọi điện thoại cho V vào, rồi cùng kéo két sắt ra giữa phòng ngủ, dùng báy, mũi đục cạy phá két sắt mở ra lấy 01 sợi dây chuyền vàng 18K, trọng lượng 0,7 phân, có giá là 1.452.500 đồng; và 01 chiếc lách vàng 18K, trọng lượng 0,3phân, có giá trị là 622.500 đồng.

Ngoài ra trong vụ án, các bị cáo Lê Thanh V, Huỳnh Xuân L2, Đặng Ngọc L3, Nguyễn Đình T2, Đặng Ngọc H1 còn thực hiện các vụ trộm cắp khác, tổng giá trị tài sản các bị cáo chiếm đoạt là 115.234.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 45/2018/HSST ngày 26/9/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định: bị cáo Nguyễn Minh P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh P 09 (chín) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án (trừ thời gian tạm giam từ ngày 02/12/2017 đến ngày 01/3/2018).

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với các bị cáo Lê Thanh V, Huỳnh Xuân L2, Đặng Ngọc L3, Nguyễn Đình T2, Đặng Ngọc H1, về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 03/10/2018 bị cáo Nguyễn Minh P kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do gia đình thuộc diện hộ nghèo, là lao động chính phải nuôi 03 người con và một mẹ già, gia đình khó khăn.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo P giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được miễn nộp án phí.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa có ý kiến Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và đề nghị không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, sửa án sơ thẩm về án phí do bị cáo thuộc diện hộ nghèo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh: bị cáo Nguyễn Minh P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của các bị cáo khác, của bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở để xác định bị cáo Nguyễn Minh P đã cùng với Lê Thanh V, Đặng Ngọc L3 02 lần thực hiện hành vi lén lút để chiếm đoạt tài sản; cụ thể ngày 05/01/2016 bị cáo P đứng cảnh giới để cho Lê Thanh V, Đặng Ngọc L3 lén lút đột nhập vào nhà chị Ngô Thị Mỹ T dùng báy sắt (công cụ báy dùng nhổ đinh) cạy cửa vào nhà lấy được 20.000.000 đồng; tiếp đến ngày 06/01/2016 bị cáo P cảnh giới để Đặng Ngọc L3 và Lê Thanh V lén lút đột nhập vào nhà chị Trương Thị G dùng báy sắt cạy cửa vào nhà, phá két sắt lấy được 01 sợi dây chuyền vàng 18k, trọng lượng 0,7 phân có giá trị là 1.452.500 đồng, 01 chiếc lách vàng 18k, trọng lượng 0,3 phân có giá là 622.500 đồng. Do đó Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh P phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt:

Bị cáo Nguyễn Minh P đã tham gia 02 vụ trộm cắp, chiếm đoạt 21.452.500 đồng với vai trò giúp sức, nên có tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bản án sơ thẩm đã áp dụng tình tiết tăng nặng “tái phạm” tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự là chưa chính xác, vì ngày 30/5/2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện A1 xử phạt về tội “Đánh bạc”, nhưng bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp trong vụ án này là ngày 05/01/2016, thời điểm này bị cáo P chưa bị kết án về tội “đánh bạc”, do vậy tình tiết này thuộc về nhân thân của bị cáo để xem xét khi quyết định hình phạt.

Bị cáo P đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khắc phục một phần hậu quả. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo P có xuất trình chứng cứ mới là Giấy chứng nhận hộ nghèo, hoàn cảnh khó khăn vì có con nhỏ và mẹ già, thuộc tình tiết giảm nhẹ mới, quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Bản án sơ thẩm đã căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Minh P 09 (chín) tháng tù là mức hình phạt nhẹ so với tính chất của hành vi phạm tội; cho nên tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo có tình tiết giảm nhẹ mới, đồng thời được sửa bỏ 01 tình tiết tăng nặng tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, nhưng xét thấy không chấp nhận giảm nhẹ hình phạt, giữ nguyên mức 09 tháng tù là hợp lý.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo có xin miễn tiền án phí, xét thấy bị cáo có tình tiết mới là cá nhân thuộc hộ nghèo, thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, nên xem xét cho bị cáo được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm; án phí hình sự phúc thẩm bị cáo không phải chịu.

[4] Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Lê Thanh V, Huỳnh Xuân L2, Đặng Ngọc L3, Nguyễn Đình T2, Đặng Ngọc H1, về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và án phí sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;

Sửa một phần bản án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Minh P.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh P 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 02/12/2017 đến ngày 01/3/2018).

- Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo P được miễn nộp, án phí hình sự phúc thẩm bị cáo không phải chịu.

- Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Lê Thanh V, Huỳnh Xuân L2, Đặng Ngọc L3, Nguyễn Đình T2, Đặng Ngọc H1, về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HS-PT ngày 07/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:25/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về