Bản án 25/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về kiện xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 25/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ KIỆN XIN LY HÔN

Trong ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 299/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 9 năm 2019 về kiện xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2019/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 105/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

1, Nguyên đơn: Anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1979. ĐKNKTT: Số 27 H, Tổ dân phố 9, phường L, thành phố H, tỉnh Quảng Bình. Có mặt tại phiên tòa.

2, Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1984 (Đã bị tuyên bố mất tích theo Quyết định giải quyết việc dân sự số 16/2019/QĐST-VDS ngày 24/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới có hiệu lực pháp luật). Nơi cư trú cuối cùng trước khi mất tích: Số 27 H, Tổ dân phố 9, phường L, thành phố H, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 16/9/2019, được bổ sung tại bản tự khai cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn anh Nguyễn Minh T trình bày: Anh Nguyễn Minh T kết hôn có đăng ký hợp pháp với chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1984 vào ngày 02/11/2004 tại UBND phường D, thành phố H, tỉnh Đồng Nai trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị chung sống và làm việc tại thành phố H, tỉnh Đồng Nai. Khoảng đến cuối năm 2005 vợ chồng anh chị về quê anh T sinh sống tại Số 27 H, nhóm 1, Tổ dân phố 9, phường L, thành phố H, tỉnh Quảng Bình cho đến năm 2011 chị Q bỏ nhà đi không báo cho gia đình, gia đình không có tin tức gì của chị Q. Từ khi chị Q bỏ đi anh T và gia đình đã tìm kiếm chị Q qua bạn bè, người thân trong gia đình nhưng không có tin tức gì của chị Q nên anh T đã làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố chị Nguyễn Thị Q mất tích. Ngày 24/7/2019 Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã có quyết định số 16/2019/QĐST-DS tuyên bố chị Q mất tích, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Từ ngày đó cho đến nay chị Q cũng không về nhà, không ai có tin tức gì về chị. Vợ chồng không sống chung với nhau đã lâu, chị Q không có trách nhiệm gì với gia đình. Vì vậy, tình cảm vợ chồng không còn nên anh xin được ly hôn để xây dựng hôn nhân và cuộc sống mới.

Về con chung: Vợ chồng không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do bị đơn chị Nguyễn Thị Q đã được Tòa án tuyên bố mất tích; Thông báo thụ lý vụ án, văn bản tố tụng và giấy triệu tập chị Q đến Tòa án đã được niêm yết công khai tại nơi cư trú cuối cùng của chị Q nhưng chị Q không gửi văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và không đến Tòa theo giấy triệu tập. Mặt khác xét thấy đã có căn cứ xác định chị Q đã mất tích nên việc hòa giải không thể tiến hành được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ đơn khởi kiện của Nguyên đơn, đây là vụ án dân sự về “Ly hôn” quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn đã bị tuyên bố mất tích có nơi cư trú cuối cùng tại phường L, thành phố H; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới.

[1.2] Về sự vắng mặt của bị đơn: Quá trình giải quyết vụ án do bị đơn đã bị tuyên bố mất tích không thể trực tiếp tống đạt văn bản tố tụng, Tòa án đã niêm yết thông báo thụ lý vụ án, thông báo triệu tập cho bị đơn Nguyễn Thị Q tại nơi cư trú cuối cùng, nhưng chị Q không gửi văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện. Tòa án đã niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đến phiên tòa, đã hoãn phiên tòa lần thứ nhất theo quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Quyết định hoãn phiên tòa có thông báo thời gian mở lại phiên tòa đã tống đạt hợp lệ nhưng bị đơn vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn Nguyễn Thị Q theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Minh T và chị Nguyễn Thị Q xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cấp có thẩm quyền. Vì vậy, hôn nhân của hai người là hoàn toàn hợp pháp; anh chị đã có thời gian chung sống với nhau khá dài. Lẽ ra anh chị phải biết thương yêu, tôn trọng nhau, cùng nhau chia sẻ khó khăn xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng ngược lại anh chị đã không làm được điều đó để giữ gìn hôn nhân bền vững. Chị Q bỏ nhà đi làm ăn rồi biệt tích, hai bên không thực hiện quyền và nghĩa vụ vợ chồng trong nhiều năm nay, chị Q bỏ mặc anh T một mình không có tin tức liên lạc với chồng, anh T đã yêu cầu Tòa án tuyên bố chị Q mất tích, Tòa án đã thông báo tìm kiếm chị Q trên phương tiện thông tin trung ương nhưng chị Q vẫn không có tin tức gì, Quyết định tuyên bố chị Q mất tích đã có hiệu lực pháp luật, từ đó cho đến nay chị Q cũng không về nhà cũng không ai có tin tức gì về chị Q. Điều này chứng tỏ mục đích của hôn nhân không đạt được, vợ chồng không thể sống chung nên Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cho vợ chồng ly hôn là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ con chung: Anh Nguyễn Minh T khai vợ chồng không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, trong khi đó chị Nguyễn Thị Q đã mất tích nên dành quyền khởi kiện bằng vụ kiện dân sự khác về con chung cho hai bên đương sự.

[2.3] Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, trong khi đó chị Nguyễn Thị Q đã mất tích nên dành quyền khởi kiện bằng vụ kiện dân sự khác về tài sản chung cho hai bên đương sự.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Minh T phải chịu án phí dân sự ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện, cho anh Nguyễn Minh T được ly hôn chị Nguyễn Thị Q.

2. Về quan hệ con chung: Dành quyền khởi kiện cho các đương sự bằng vụ kiện dân sự khác khi có yêu cầu.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc anh Nguyễn Minh T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn để sung quỹ Nhà nước. Số tiền anh T phải nộp được khấu trừ từ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí anh T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới theo biên lai số AA/2017/0005553 ngày 27 tháng 9 năm 2019.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về kiện xin ly hôn

Số hiệu:25/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về