Bản án 25/2019/HNGĐ-ST ngày 10/09/2019 về tranh chấp ly hôn và quyền nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀ CÚ, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 25/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ QUYỀN NUÔI CON

Trong ngày 10 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trà Cú tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 318/2019/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn và quyền nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2019/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Sơn Thị K, sinh năm 1986 (có đơn xin xét xử vắng mặt);

Địa chỉ: ấp ĐA, xã P, huyện T, tỉnh Trà Vinh.

Tạm trú: ấp PN, xã PH, huyện AP, tỉnh AG.

- Bị đơn: Anh Từ Thanh T, sinh năm 1984 (vắng mặt);

Địa chỉ: Đ A, xã P, huyện T, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 31/5/2019;bản tự khai ngày 20/6/2019 và đơn yêu cầu xét xử vắng mặt ngày 19/8/2019 của nguyên đơn chị Sơn Thị K trình bày: Vào năm 2004 do mai mối nên chị và anh Từ Thanh T có tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân với nhau, trước sự đồng ý và cho phép tổ chức lễ cưới của hai bên gia đình và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phước Hưng, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh ngày 17/02/2004. Sau ngày cưới vợ chồng về sống bên nhà cha mẹ chồng tại ấp Đ A, xã P, huyện T, vợ chồng chung sống với nhau rất hạnh phúc, luôn quan tâm chăm sóc đến nhau. Đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, vợ chồng thường cải nhau do 1 anh Tỏa có tính gia trưởng, thường chì chiết nặng lời, hành hạ tinh thần làm cho chị lúc nào cũng thấy căng thẳng, đau buồn. Từ đó, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên chị đã về nhà cha mẹ ruột ở và sống ly thân từ tháng 11 năm 2018 cho đến nay, từ lúc ly thân hai bên không tạo điều kiện hàn gắn. Đến nay nhận thấy giữa vợ chồng mâu thuẫn đến mức trầm trọng không thể hàn gắn được, chúng tôi không còn yêu thương, quan tâm chăm sóc nhau, tình cảm vợ chồng không còn nên tôi yêu cầu được ly hôn.

Về con chung: Có 01 người con tên Từ Thị Kiều N, sinh ngày 12/12/2004 chị K thống nhất giao cho anh Từ Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, chị Kiều không có ý kiến hay yêu cầu gì khác.

- Tại bản tự khai và biên bản lấy lời khai ngày 20/6/2019 anh Từ Thanh T trình bày: Thống nhất với lời trình bày của chị Sơn Thị K về thời gian kết hôn, con chung, tài sản chung và nợ chung là đúng. Nay với yêu cầu ly hôn của chị Sơn Thị K thì anh không đồng ý ly hôn với lý do anh không có làm việc gì sai trái với vợ và con; nguyên nhân do vợ đang mang thai nên tinh thần có thay đổi, không ổn định, tính tình cáu gắt, thiếu bình tỉnh nên mới xin ly hôn.

- Ý kiến của cháu Từ Thị Kiều N trình bày: Cháu không muốn cha mẹ cháu ly hôn nếu cha mẹ có ly hôn thì nguyện vọng của cháu là ở với cha Từ Thanh T.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát huyện Trà Cú tham gia phiên tòa:

Qua nghiên cứu đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm về tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm nhân dân và những người tham gia tố tụng.

Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan trong quá trình thụ lý và chuẩn bị xét xử. Về chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình theo qui định tại các Điều 70, Điều 71 và Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án ly hôn do nguyên đơn chị Sơn Thị Klàm đơn khởi kiện xin ly hôn với bị đơn anh Từ Thanh Ttheo quy định. Do bị đơn anh Từ Thanh T có nơi cư trú tại ấp ĐA, xã P, huyện T, tỉnh Trà Vinh nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh.

Chị Sơn Thị K có đơn đề nghị vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xử vắng mặt chị K.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Sơn Thị K và anh Từ Thanh T xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2004 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đã được Ủy ban nhân dân xã P, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 17/02/2004, theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Sơn Thị K, Hội đồng xét xử nhận định: Hai anh chị chung sống hạnh phúc với nhau được một thời gian thì nảy sinh mâu thuẫn do cả hai bên không tìm được tiếng nói chung, không có sự chia sẻ và cảm thông cho nhau.Trước yêu cầu ly hôn của chị K anh T không đồng ý vì cho rằng còn tình cảm với chị và và chị K làm đơn ly hôn trong thời điểm mang thai đứa con thứ hai giữa anh và chị K nên anh muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nuôi dạy con chung.Trong khoảng thời gian ly thân giữa chị K và anh T không có biện pháp cải thiện tình cảm vợ chồng, vợ chồng không liên lạc với nhau và không tự đoàn tụ được. Quá trình giải quyết vụ án chị K cho rằng không còn tình cảm với anh T nên anh, chị không có khả năng hàn gắn và chị cương quyết xin được ly hôn với anh T.

Xét thấy, tình trạng hôn nhân của chị K và anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Kiều đối với anh T là có cơ sở theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Từ Thị Kiều N, sinh ngày 12/12/2004 sau khi ly hôn chị K thống nhất giao con cho anh T nuôi theo nguyện vọng của con, như vậy các đương sự đã thỏa thuận trong việc nuôi con và sự thỏa thuận của các đương sự không trái pháp luật nên chấp nhận giao con cho anh T nuôi theo nguyện vọng của con là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Anh T không yêu cầu chị K phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận sự tự nguyện này của anh T.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị K và anh T xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Sơn Thị K là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên chị K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, phần tạm ứng án phí.

[6] Xét ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát trong việc giải quyết vụ án là có căn cứ được chấp nhận

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dung các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Sơn Thị K, cho chị Sơn Thị K được ly hôn với anh Từ Thanh T.

2.Về con chung: Anh Từ Thanh T được nuôi con Từ Thị Kiều N, sinh ngày 12/12/2004 (đây cũng là ý chí, nguyện vọng của cháu N được sống với cha) đến khi con chung đủ 18 tuổi. Ghi nhận sự tự nguyện của anh T không yêu cầu chị K cấp dưỡng nuôi con.

Cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được chung sống với người trực tiếp nuôi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị K và anh T xác định không có, không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Sơn Thị K phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nên được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) mà chị K đã nộp theo biên lai thu số 0002010 ngày 31 tháng 5 năm 2019 nên chị K không phải nộp thêm.

5. Quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án. Quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HNGĐ-ST ngày 10/09/2019 về tranh chấp ly hôn và quyền nuôi con

Số hiệu:25/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trà Cú - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về