Bản án 25/2019/DS-ST ngày 21/08/2019 về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 25/2019/DS-ST NGÀY 21/08/2019 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM

Trong ngày 21 tháng 8 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 69/2019/TLST-DS ngày 07 tháng 5 năm 2019 “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2019/QĐXXST-DS ngày 06 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị C, sinh năm 1953, nơi cư trú: tổ 3, ấp M, xã N, huyện T, tỉnh A, có mặt.

- Bị đơn: Bà Phạm Thị T, sinh năm 1968, nơi cư trú: số 79, tổ 3, ấp M, xã N, huyện T, tỉnh A, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 19 tháng 4 năm 2019 và quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn bà Phạm Thị C trình bày: Bà T là cháu ruột ở gần nhà, sự việc xảy ra khoảng 19 - 20 giờ, ngày 10 tháng 3 năm 2019, nguyên nhân do bà T có nhậu say về chửi bà, hai bên cải vã với nhau, thì bà bị bà T dùng chổi, đánh trúng mặt và vai, sự việc xảy ra không có ai chứng kiến. Sau đó bà một mình đi báo công an và đi Trung tâm y tế huyện T khám điều trị bệnh, từ ngày 11 tháng 3 năm 2019 đến ngày 18 tháng 3 năm 2019 xuất viện.

Bà yêu cầu bà T phải bồi thường tổng chi phí điều trị bệnh là 3.138.638 đồng, gồm:

1. Hóa đơn ngày 18 tháng 3 năm 2019 là 1.538.638 đồng;

2. City não ngày 17 tháng 3 năm 2019 tại Bệnh viện Nhật Tân, là 800.000 đồng (do yêu cầu của bác sĩ ở bệnh viện Tịnh Biên).

3. Chi phí người nuôi bệnh mỗi ngày 100.000 đồng x 8 ngày = 800.000 đồng.

- Ý kiến của bị đơn bà Phạm Thị T trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa như sau: Sự việc xảy ra khoảng 19 - 20 giờ, ngày 10 tháng 3 năm 2019 giữa bà với bà C có chửi, cãi vã nhau, do nhớ lại thường ngày bà C hây chửi và đi nói xấu bà với người khác. Nên bà chửi lại bà C, trong lúc không kiềm chế vì bị bà C cầm cây chổi quét nhà đánh bằng cán vào bà 02 cái trúng bả vai trái và dưới mang tai trái, nên bà cũng dùng chổi đánh lại bà C không biết mấy cái, nhưng nhớ là đánh trúng mặt bà C. Bà biết bà C có đi điều trị nằm viện, còn chi phí bao nhiêu bà không biết. Bà cũng bị thương tích nhưng không yêu cầu bồi thường trong vụ án này.

Về chi phí bà C yêu cầu bồi thường 3.138.638 đồng, bà chỉ đồng ý bồi thường cho bà C 1.500.000 đồng tiền thuốc điều trị.

- Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với người tham gia tố tụng: Nguyên đơn và bị đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định tại Điều 70, 71, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án:

+ Về yêu cầu của nguyên đơn: Từ lời khai của nguyên đơn trình bày bị thương tích mặt và vai, cùng với lời khai của bị đơn bà T xác định có dùng chổi đánh trúng vào mặt bà C, điều này phù hợp chứng cứ thể hiện trong hồ sơ bệnh án của bà C khi vào điều trị bị “ Đa chấn thương”. Nên có đủ cơ sở xác định thương tích này do bà T gây ra cho bà C. Từ đó, phát sinh nghĩa vụ dân sự về bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 584 Bộ luật dân sự, nên bà T phải bồi thường cho bà C chi phí điều trị bệnh trong thời gian nằm viện là phù hợp.

+ Về chi phí điều trị: Các khoản bà C yêu cầu là chi phí hợp lý, những thiệt hại thực tế cho việc khám chữa, phục hồi sức khỏe. Nên có cơ sở chấp nhận.

- Tài liệu, chứng cứ Tòa án thu thập: Biên bản xác minh ngày 06 tháng 8 năm 2019 tại Trung tâm y tế huyện T.

Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn và bị đơn trình bày vẫn giữ nguyên ý kiến;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn bà Phạm Thị T có nơi cư trú tại tổ 3, ấp M, xã N, huyện T, tỉnh A. Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên thụ lý, giải quyết là đúng với quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thấy rằng giữa bà C với bà T là tranh chấp dân sự do sức khỏe bị xâm phạm. Yêu cầu này phù hợp theo quy định điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015. Vì vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét về bồi thường thiệt hại thấy rằng:

Theo tài liệu và đơn khởi kiện nguyên đơn có tên là “Phạm Thị C”, tuy nhiên qua tài liệu tòa án thu thập Hồ sơ bệnh án có tên “Phạm Thị Tr”. Ngày 06/8/2019 Tòa án đã xác minh tại Trung tâm y tế huyện T có xác định:

“......do người nhà bà Phạm Thị C đưa vào không mang theo giấy tờ tùy thân và đọc tên cho nhân viên làm hồ sơ bệnh án, do người nhà đọc không đúng ......nên xảy ra việc trong hồ bệnh án và các giấy tờ lưu tại Trung tâm tên là Phạm Thị Tr......”. Do đó, từ các tài liệu và chứng cứ theo hồ sơ bệnh án tại Trung tâm y tế huyện T, thì có cơ sở xác định “Phạm Thị Tr” chính là “Phạm Thị C”.

Xét về yêu cầu và trình bày, cũng như đánh giá về tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, thấy rằng sự việc xảy ra lúc 19 - 20 giờ, ngày 10 tháng 3 năm 2019, giữa bà C và bà T xảy ra cải vã, xô xát với nhau. Hậu quả bà C phải đi điều trị bệnh từ ngày 11 tháng 3 năm 2019 đến ngày 18 tháng 3 năm 2019 tại Trung tâm y tế huyện T. Từ lời khai của bà C trình bày bị thương tích ở mặt và vai, cùng với lời khai của bị đơn bà T thừa nhận có dùng chổi đánh bà C gây thương tích ở mặt, điều này phù hợp về thời gian sau khi xảy ra sự việc xảy ra và chứng cứ khác thể hiện trong Hồ sơ bệnh án tại “mục 22.

Khi vào điều trị: Đa chấn thương và phần I. Lý do vào viện: sưng hai gò má” điều trị từ ngày 11 tháng 3 năm 2019 đến ngày 18 tháng 3 năm 2019. Nên có đủ cơ sở xác định thương tích này do bà T gây ra cho bà C, nên bà T phải bồi thường chi phí điều trị bệnh trong thời gian nằm viện là phù hợp.

Các khoản bà C yêu cầu bồi thường là chi phí hợp lý, phù hợp theo quy định tại điều 590 Bộ luật dân sự, đó là những thiệt hại thực tế cho việc khám chữa bệnh, phục hồi sức khỏe, gồm:

1. Tiền thuốc và viện phí (Hóa đơn ngày 18 tháng 3 năm 2019) là 1.538.638 đồng;

2. City não ngày 17 tháng 3 năm 2019 tại Bệnh viện Nhật Tân, là 800.000 đồng (do yêu cầu của bác sĩ ở bệnh viện Tịnh Biên).

3. Chi phí người nuôi bệnh mỗi ngày 100.000 đồng x 8 ngày = 800.000 đồng.

Do đó, buộc bà T phải bồi thường cho bà C là 3.138.638 đồng.

Tại phiên tòa bị đơn tranh luận cho rằng, do bị bà C đánh trước nên bị đơn mới đánh lại bà C, bị đơn không có lỗi, sự việc do cả hai gây ra, nên bị đơn chỉ đồng ý bồi thường 1.500.000 đồng. Tuy nhiên, theo tranh luận của bị đơn là không có căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét.

Do đó, theo ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị là có cơ sở. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bà T có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho bà C số tiền 3.138.638 đồng.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí không giá ngạch theo đối với yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận. Nguyên đơn được miễn án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 584, 585 và Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015;

- điểm d khoản 1 Điều 12 và Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị C đối với bà Phạm Thị T.

- Buộc bà Phạm Thị T có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà Phạm Thị C số tiền 3.138.638 đồng (ba triệu, một trăm ba mươi tám ngàn, sáu trăm ba tám đồng).

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phạm Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí. Bà Phạm Thị C được miễn tiền án phí.

- Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

287
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/DS-ST ngày 21/08/2019 về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm

Số hiệu:25/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về