Bản án 25/2018/HSST ngày 07/03/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 25/2018/HSST NGÀY 07/03/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 07 tháng 03 năm 2018 tại Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2018/TLST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2018/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 2 năm 2018, đối với bị cáo:

Cao Q. Sinh năm 1986 tại Quảng Bình.

Nơi ĐKHKTT và chổ ở: Làng N, xã N, huyện P, tỉnh Gia Lai. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo : Không.

Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lái xe.

Con ông Cao M (Đã chết) và bà Đinh H (Đã chết).

Bị cáo có 07 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm 1963. Bị cáo chưa có vợ. Tiền án; tiền sự: Không.

Bị cáo đang tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

*Đại diện hợp pháp của người bị hại Huỳnh Thị L (đã chết) là bà Huỳnh Thị D và anh Nguyễn Đ:

- Bà Huỳnh Thị D, sinh năm: 1966.

Địa chỉ: Thôn B, xã C, huyện P, tỉnh Gia Lai. Có đơn xin vắng mặt.

- Anh Nguyễn Đ, sinh năm: 1985.

Địa chỉ: Thôn B, xã C, huyện P, tỉnh Gia Lai. Có đơn xin vắng mặt.

*Bị đơn dân sự:

Công ty TNHH Vận tải Hồng Hải. Đại diện theo pháp luật là ông Nguyễn H - Giám đốc Công ty.

Địa chỉ: 29A đường Y, phường Đ, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt

*Người làm chứng: anh Nguyễn D, sinh năm 1973; Địa chỉ: Thôn H, thị trấn C, huyện C, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cao Q có Giấy phép lái xe hạng E và hợp đồng lái xe thuê cho Công ty vận tải Hồng Hải (Trụ sở tại số 45 đường H, phường D, thành phố P, tỉnh Gia Lai) về việc chở khách đi từ huyện Đ, tỉnh Gia Lai đến thành phố N và ngược lại.

Vào khoảng 07 giờ ngày 09/7/2017, Q điều khiển xe ô tô biển số 81B -004.42 của Công ty vận tải Hồng Hải chở khách đi từ huyện Đ, tỉnh Gia Lai đến thành phố N. Đến khoảng 07 giờ 40 phút cùng ngày, khi đến Km 182, Quốc lộ 19B thuộc địa phận Thôn 4, xã G, thành phố P, tỉnh Gia Lai, Q phát hiện thấy phía trước, cách đầu xe ô tô biển số 81B - 004.42 khoảng 15 đến 17 mét có 01 xe ô tô tải (Hiện không xác định được biển số và người điều khiển) đang lưu thông phía trước cùng chiều theo hướng từ xã B, huyện P đến thành phố P. Q bật đèn xi nhan bên trái rồi điều khiển xe ô tô đi sang phần đường bên trái để vượt xe ô tô tải trên. Khi vừa vượt qua xe ô tô tải này khoảng 05 mét thì Q phát hiện thấy phía trước, cách xe ô tô của Q điều khiển khoảng 10 mét có xe mô tô biển số 81P4-7661 do anh Nguyễn Đ (Sinh năm 1985, trú tại xã Bàu Cạn, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai) điều khiển chở vợ là chị Huỳnh Thị L cũng đang lưu thông phía trước cùng chiều.

Ngay lúc này, Q cũng phát hiện thấy có 02 xe ô tô (Không xác định được biển số và người điều khiển) đang lưu thông phía trước ngược chiều, nhưng Q vẫn điều khiển xe ô tô đi lấn sang phần đường bên trái với tốc độ khoảng 55-60 km/h (Theo lời khai của bị cáo) để vượt xe mô tô biển số 81P4-7661 do anh Đ điều khiển. Khi đang vượt xe mô tô biển số 81P4-7661, do thấy 02 xe ô tô lưu thông ngược chiều đã đi đến gần nên Q điều khiển xe ô tô biển số 81B-004.42 đi về lại phần đường bên phải theo hướng đang lưu thông, thì phía trước bên phải của đầu xe ô tô do Q điều khiển đã va chạm vào đầu tay lái bên trái của xe mô tô biển số 81P4-7661.

Sau khi xảy ra va chạm, xe mô tô biển số 81P4-7661 do anh Đ điều khiển bị loạng choạng tay lái, làm chị L ngã xuống đường và bị bánh sau bên phải của xe ô tô biển số 81B-004.42 cán qua người làm chị L chết tại chỗ. Ngay sau khi bị va chạm, thì xe mô tô do anh Đ điều khiển bị loạng choạng tay lái, anh Đ điều khiển xe chạy thêm một đoạn thì để xe nằm trên lề đường phải theo hướng đã lưu thông. Sau khi xảy ra ta i nạn, Q đến Công an thành phố P đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Qua giám định, tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 285/TTPY của Trung tâm pháp y tỉnh Gia Lai ngày 20/7/2017, kết luận chị Huỳnh Thị L chết do: “Vỡ sọ + đa chấn thương do tai nạn giao thông”.

Đối với xe ô tô biển số 81B-004.42 và xe mô tô biển số 81P4-7661, sau khi khám nghiệm, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P đã trả lại cho ông Nguyễn H (Sinh năm 1958, trú tại số 29A đường Y, phường Đ, thành phố P, tỉnh Gia Lai) và anh Nguyễn Đ - là các chủ sở hữu. 

Về dân sự: Bị cáo Cao Q và chủ sở hữu phương tiện là ông Nguyễn H đã bồi thường cho các đại diện hợp pháp của bị hại Huỳnh Thị L số tiền 170.000.000 đồng. Hiện các đại d iện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại cáo trạng số 17/CTr-VKS ngày 03/1/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Cao Q về tội “ Vi phạm quy đ ịnh về đ iều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Cao Q và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Cao Q phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự 1999; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Đ iều 65 Bộ luật hình sự 2015; Xử phạt bị cáo Cao Q mức án từ 09 đến 12 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng tính từ ngày tuyên án.

Về dân sự: đã giải quyết xong và phía gia đình bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập giải quyết.

Về án phí: Buộc bị cáo Cao Q phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án:

“Bị cáo thấy rất ân hận vì đã gây ra cái chết cho người bị hại. Mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại, bị đơn dân sự, người làm chứng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Cao Q phạm tội như sau:

Vào khoảng 07 giờ ngày 09/7/2017 Cao Q điều khiển xe ô tô biển số 81B-004.42 của Công ty vận tải Hồng Hải lưu thông trên đường Quốc lộ 14 theo hướng từ huyện Đ, tỉnh Gia Lai đến thành phố P để đi thành phố N. Khi đến Km 182, Quốc lộ 19B thuộc địa phận thôn 4, xã G, thành phố P, tỉnh Gia Lai thì va chạm vào xe mô tô biển số 81P4- 7661 do anh Nguyễn Đ chở chị Huỳnh Thị L đang lưu thông phía trước cùng chiều. Sau khi va chạm, xe mô tô do anh Đ điều khiển bị loạng choạng tay lái, làm chị L bị ngã xuống đường và bị bánh sau bên phải của xe ô tô biển số 81B- 004.42 cán qua người. Hậu quả làm chị L chết.

Nguyên nhân của vụ tai nạn trên là do Cao Q điều khiển xe ô tô biển số 81B-004.42 khi tham gia giao thông không đảm bảo an toàn giao thông, vượt xe không đúng quy định, vượt xe khi có chướng ngại vật ở phía trước ngược chiều là 02 xe ô tô đang lưu thông đến và xử lý kém.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã gây thiệt hại đến tính mạng của công dân, gây mất trật tự, trị an xã hội, gây ra đau thương mất mát không gì bù đắp được cho gia đình người bị hại. Hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nghiêm trọng đã làm chết 01 người.

[4] Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đã truy tố.

Do vậy, cần thiết phải xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xét bị cáo trong quá trình điều tra, xét xử đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tích cực cùng bị đơn dân sự bồi thường thiệt hại cho phía gia đình bị hại; các đại diện hợp pháp của người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù mà cho hưởng án treo thấy cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục.

[6] Về bồi thường dân sự: Tại phiên tòa hôm nay, các đại diện hợp pháp bị hại có đơn xin vắng mặt và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo Cao Q phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

Về tội danh và hình phạt

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015; Tuyên bố bị cáo Cao Q phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Cao Q 09 tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Cao Q cho Uỷ ban nhân dân xã Nghĩa Hưng, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự 2010.

Về án phí 

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2014/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử buộc bị cáo Cao Q phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo, bị đơn dân sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án: Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự 2008: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân s ự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

398
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2018/HSST ngày 07/03/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:25/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về