Bản án 25/2018/HNGĐ-ST ngày 28/05/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 25/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 28 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 68/2018/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 4 năm 2018 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2018/QĐXXST–HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trà Thị N, sinh năm 1976 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp L, xã B, huyện T, tỉnh S.

Bị đơn: Anh Trần C, sinh năm 1979 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Tr, xã L, huyện T, tỉnh S.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Trà Thị N trình bày:

Chị N với anh Trần C kết hôn với nhau năm 2009 (Có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã b, huyện T, tỉnh S cấp giấy chứng nhận kết hôn số 39 ngày 05 tháng 3 năm 2009). Sau khi kết hôn chị N và anh C về sống tại ấp L, xã B, huyện T, tỉnh S. Sau khi về chung sống với nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cải vã, bất đồng quan điểm. Anh C bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống. Hai người ly thân từ năm 2011 đến nay.

Trong quá trình chung sống chị N và anh C có một con chung tên Trần Thị M, sinh ngày 11/01/2011 đang sống cùng chị N. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Nay chị N yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về Hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với anh Trần C.

- Về con chung: Yêu cầu được trực tiếp nuôi con không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trần C không có lời trình bày do vắng mặt. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định. Tính đến ngày Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, vụ án còn trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo điểm a khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về hôn nhân: Cho chị N ly hôn với anh C. Về con chung: Giao cho chị N nuôi dưỡng con chung, anh C không cấp dưỡng cho con. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay anh Trần C mặc dù đã được tống đạt giấy triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không rõ lý do. Do đó Tòa án căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt đối với anh C.

[2] Về nội dung: Tại tòa chị Trà Thị N giữ nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Toà án cho ly hôn với anh Trần C và giành quyền nuôi con. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Trà Thị N với anh Trần C là hôn nhân hợp pháp (hai người có đăng ký kết hôn). Sau khi kết hôn hai người về chung sống bên gia đình chị N. Thời gian đầu hai người chung sống với nhau hạnh phúc, một thời gian sau thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã, bất đồng quan điểm. Anh C bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống. Hai người ly thân từ năm 2011 đến nay thời gian ly thân vợ chồng không ai tới lui, chăm sóc nhau, trong giai đoạn hòa giải cũng như tại phiên tòa chị N kiên quyết yêu cầu ly hôn nên xét thấy tình trạng hôn nhân của hai người đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó chị N yêu cầu được ly hôn với anh C là có căn cứ được quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Cháu Trần Thị M, sinh ngày 11/01/2011 đang sống cùng chị N. Chị N yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi con, xét thấy chị N có đủ điều kiện nuôi con và yêu cầu này là có căn cứ được quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con do chị N không yêu cầu nên anh C không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị N trình bày không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do chị N yêu cầu nên chị N phải chịu theo luật định.

[8] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chị Trà Thị N.

- Về hôn nhân: Chị Trà Thị N được quyền ly hôn với anh Trần C.

- Về con chung: Giao cháu Trần Thị M, sinh ngày 11/01/2011 cho chị Trà Thị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh Trần C không phải cấp dưỡng nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Trà Thị N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn chị Trà Thị N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2015/0009550 ngày 30/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy chị N đã nộp xong án phí.

Án sơ thẩm được xét xử công khai báo cho chị N biết có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn anh Trần C được tính từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2018/HNGĐ-ST ngày 28/05/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:25/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về