Bản án 25/2018/HNGĐ-ST ngày 08/02/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 25/2018/HNGĐ-ST NGÀY 08/02/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 02 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 465/2017/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 216/2017/QĐXXST - HNGĐ ngày 19 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Diễm C, sinh năm 1994. (Có mặt) Cư trú: Ấp H, xã K, huyện C, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Phát Đ, sinh năm 1994. (Vắng mặt) Cư trú: Ấp T, xã B, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 02 tháng 10 năm 2017 và quá trình giải quyết vụán nguyên đơn Bà Trần Thị Diễm C trình bày:

Bà và ông Đ sống chung với nhau năm 2012, có đăng ký kết hôn, sống hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn, sau đó hàn gắn sống chung đến tháng 5/2016 lại phát sinh mâu thuẫn và ly thân đến nay. Nguyên nhân do tính tình không hợp, ông Đ không lo làm ăn. Hiện nay tình cảm không còn, bà xin được ly hôn với ông Đ.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 10/4/2016. Hiện nay cháu N đang sống với bà C. Khi ly hôn, bà C yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Ông Nguyễn Phát Đ vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nênTòa án không ghi nhận được ý kiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Diễm C, Ông Nguyễn Phát Đ đăng ký kết hôn năm 2012 nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Theo bà C trình bày: Vợ, chồng sống hạnh phúc khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân ông Đthường xuyên uống rượu, không quan tâm đến vợ con, ly thân từ tháng 5/2016 đến nay, bà C yêu cầu được ly hôn với ông Đ. Ông Đ được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do, cũng không có ý kiến phản hồi cho thấy tình cảm vợ, chồng đã không còn, mâu thuẫn đã trở nên trầm trọng, nếu buộc trở lại sống chung cũng không hạnh phúc, nghĩ nên cho họ ly hôn.

Về quan hệ con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 10/4/2016, hiện đang sống với bà C . Khi ly hôn, bà C  yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu Tòa án cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, cháu N dưới 36 tháng tuổi, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình thì con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi. Bà C đang nuôi con chung, để đảm bảo sự phát triển bình thường về thể chất, tinh thần của cháu Nghi, nghĩ nên để bà C tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, ông Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, xem xét quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Bà Trần Thị Diễm C khởi kiện ông Nguyễn Phát Đ, ông Đ cư trú Ấp T, xã B, huyện C, tỉnh An Giang, Tòa án nhân dân huyện Chợ Mớithụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp theo quy định tại Điều 28, Điều35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông Nguyễn Phát Đ đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông theo quy định tại Điều228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà C và ông Đ là hợp pháp. Quá trình chung sống do ông, bà bất đồng quan điểm sống nên dẫn đến va chạm, mâu thuẫn, mất lòng tin với nhau. Bà C và ông Đ ly thân từ tháng 5/2016 đến nay không còn liên lạc, vợ chồng không quan tâm lẫn nhau, như vậy mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung giữa bà C và ông Đ không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không Đđược. Tại phiên tòa, bà C xác định tình cảm không còn. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của bà C là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]. Về con chung: Vợ chồng 01 con chung tên Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 10/4/2016. Hiện cháu Nđang sống với bà C. Khi ly hôn, bà C yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Hiện nay cháu N đã sống ổn định với bà C. Bà C yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, ông Đ cũng không có ý kiến phản đối. Tại biên bản xác minh ngày 17/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thì cháu Nsống với bà C pháttriển tốt về tinh thần và thể chất, nhà bà C gần trường học, trạm y tế, đảm bảo về việc học hành cũng như chăm sóc sức khỏe cho cháu N. Do đó, có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bà C là được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu N.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Trần Thị Diễm C không yêu cầu nên Tòa án không xem xét đóng góp phí tổn nuôi con chung đối với ông Đ .

[5]. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. [6]. Về nợ chung: Không có.

Ghi nhận hai bên xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của bà C và ông Đ thì ông, bà phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

[7]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Bà Trần Thị Diễm C phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Điều 28, 35, 39, 147, 228, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của Bà Trần Thị Diễm C.

[1]. Về hôn nhân: Bà Trần Thị Diễm C được ly hôn với ông Nguyễn PhátĐ.

[2]. Về con chung: Bà Trần Thị Diễm C được tiếp tục chăm sóc, nuôidưỡng 01 con chung tên Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 10/4/2016.

Bà Trần Thị Diễm C cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Nguyễn Phát Đ trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[3]. Về tài sản chung: Không có, không đề cập giải quyết.

[4]. Về nợ chung: Không có, không đề cập giải quyết.

[5]. Về án phí: Bà Trần Thị Diễm C phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm300.000 (ba trăm nghìn) đồng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tiền số 0014353 ngày 02/10/2017của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2018/HNGĐ-ST ngày 08/02/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:25/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về