Bản án 25/2018/HNGĐ-ST ngày 04/12/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 25/2018/HNGĐ-ST NGÀY 04/12/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 04 tháng 12 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnhNinh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 281/2018/TLST- HNGĐ ngày 18/9/2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Thương H, sinh năm 1995.

Địa chỉ: Số nhà 679, phố B, phường Đ, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. (Có mặt)

- Bị đơn: Anh Trần Văn C, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Số nhà 641, phố B, phường Đ, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Vũ Thị Thương H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Trần Văn C tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn ngày 05/01/2016 tại UBND phường Đ, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống cùng gia đình bố mẹ anh C được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên va chạm. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh C không chịu lao động, hay chơi bời làm ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, anh C đã từng bị cơ quan pháp luật xử lý về hành vi đánh bạc. Chị H đã về nhà bố mẹ đẻ ở, làm ăn.

Vợ chồng đã ly thân được một thời gian, không còn quan tâm và có trách nhiệm gì với nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng được gia đình bố mẹ hai bên cũng đã khuyên bảo nhưng không có kết quả. Chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Trần Văn C.

- Về nuôi con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, chị H và anh C có 01 con chung là cháu Trần Gia B1 sinh ngày 02/10/2016. Hiện nay cháu còn nhỏ, đang ở với chị H. Chị có chỗ ở ổn định, thu nhập bình quân từ 8.000.000 đồng – 10.000.000 đồng/tháng; chị xác định bản thân đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc cháu nên đề nghị được nuôi con và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về chia tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Trần Văn C biết việc chị H đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, đã nhận được thông báo thụ lý và các văn bản tố tụng khác của Tòa án tuy nhiên anh C không trình bày quan điểm đối với yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị Thương H.

Theo báo cáo của trưởng tổ dân phố B nơi vợ chồng anh C, chị H cư trú, sinh sống thể hiện: Anh C và chị H kết hôn hợp pháp và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Qúa trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, va chạm do anh C mải chơi, đua đòi cờ bạc dẫn đến nợ nần. Hiện nay, anh C vẫn cư trú tại phố B nhưng không có mặt ở nhà, cố tình giấu địa chỉ. Mâu thuẫn giữa anh C, chị H chính quyền địa phương biết rõ, đã hòa giải nhiều lần để vợ chồng đoàn tụ nhưng không có kết quả. Vợ chồng có01 con chung là cháu Trần Gia B1 hiện nay đang ở với chị H. Chị H có công việc, thu nhập ổn định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về áp dụng pháp luật tố tụng:

-Quan hệ pháp luật và thẩm quyền quyền giải quyết vụ án: Đây là quan hệ tranh chấp về ly hôn, nuôi con khi ly hôn; thuộc thẩm quyền giải quyết Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Vũ Thị Thương H có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải được quy định tại khoản 4 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải là có căn cứ.

- Tại phiên tòa ngày 27/11/2018, chị Vũ Thị Thương H có mặt, anh Trần Văn C đã được Toà án triệu tập hợp lệ vắng mặt không có lý do. Vì vậy Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay (ngày 04/12/2018), chị H có mặt, anh Cường đã được Toà án triệu tập hợp lệ vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Trần Văn C.

[2].Về áp dụng pháp luật nội dung:

-Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Vũ Thị Thương H và anh Trần Văn C là tự nguyện, hợp pháp; có đăng ký kết hôn vào ngày ngày 05/01/2016 tại UBND phường Đ, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.

Sau khi kết hôn, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên va chạm. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh C không chịu lao động, hay chơi bời làm ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, anh C đã từng bị cơ quan pháp luật xử lý về hành vi đánh bạc. Vợ chồng đã ly thân được một thời gian, không còn quan tâm đến nhau. Gia đình bố mẹ hai bên và chính quyền địa phương cũng đã khuyên bảo cả hai đoàn tụ nhưng không có kết quả.

Từ những căn cứ trên thể hiện anh Trần Văn C đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho tình trạng hôn nhân giữa chị Vũ Thị Thương H và anh Trần Văn Cườnglâm vào mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử cần chấp nhận đơn khởi kiện của chị chị Vũ Thị Thương H xin ly hôn anh Trần Văn C.

- Về nuôi con chung: Chị Vũ Thị Thương H và anh Trần Văn C có 01 con chung là cháu Trần Gia B1 sinh ngày 02/10/2016. Hiện nay cháu đang ở với chị H. Chị H có công việc, chỗ ở ổn định; thu nhập bình quân hàng tháng khoảng 8.000.000 đồng – 10.000.0000 đồng, đủ điều kiện để nuôi dưỡng con chung.Vì vậy, căn cứ Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án giao cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu B1. Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

- Về chia tài sản: Chị H không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[3].Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều84 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị Thương H xin được ly hôn anh Trần Văn C.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Thương H ly hôn anh Trần Văn C.

2. Về nuôi con chung: Giao cho chị Vũ Thị Thương H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trần Gia B1 đến khi cháu B1 đủ 18 tuổi.

Anh Trần Văn C không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, có quyền nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

3.Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Vũ Thị Thương H chịu án phí ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Số tiền trên được trừ vào số tiền chị H nộp tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0000916 ngày 18 tháng 9 năm 2018. Chị H đã nộp đủ.

Án xử công khai sơ thẩm, chị Vũ Thị Thương H có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trần Văn C vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2018/HNGĐ-ST ngày 04/12/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:25/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về