TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 25/2017/DS-ST NGÀY 05/04/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 4 năm 2017, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 38/2017/TLST-DS ngày 22 tháng 02 năm 2017 về “tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đƣa vụ án ra xét xử số: 24/2017/QĐST-DS ngày 21 tháng 3 năm 2017 giữa các đƣơng sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1967; địa chỉ: Số 24/5, khu phố B, phường H, thị xã T, tỉnh Bình Dương.
2. Bị đơn: Bà Phan Thị S, sinh năm 1969 và ông Đỗ Văn C, sinh năm 1967; cùng địa chỉ: Số 52/2, khu phố B, phƣờng H, thị xã T, tỉnh Bình Dƣơng. Bà S có mặt, ông C có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai, biên bản đối chất và tại phiên toà, nguyên đơn bà Nguyễn Thị G trình bày:
Vào ngày 20 tháng 9 năm 2016 bà Phan Thị S đến nhà bà vay số tiền 40.000.000 đồng. Do quan hệ quen biết nên đƣợc bà đồng ý và 02 bên lập “giấy mƣợn tiền” có nội dung: Bà Phan Thị S vay của bà Nguyễn Thị G số tiền 40.000.000 đồng; thời hạn vay là một tháng; mục đích vay để chữa bao tử cho chồng là ông Đỗ Văn C và làm sổ đỏ, mua xe bánh mì, sinh hoạt trong gia đình. Tuy nhiên, đến hạn nhiều lần bà đến nhà yêu cầu vợ chồng bà S, ông C trả tiền, nhƣng vợ chồng bà S, ông C không trả nên bà khởi kiện yêu cầu bà S, ông C phải thanh toán cho bà tiền nợ gốc là 40.000.000 đồng và tiền lãi suất 8.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện về mức lãi suất, nguyên đơn chỉ yêu cầu mức lãi suất là 0.75%/tháng tính từ ngày 21/10/2016 đến 21/3/2017 là 05 tháng x 40.000.000 đồng x 0.75% = 1.500.000 đồng.
Chứng cứ nguyên đơn cung cấp là “giấy mƣợn tiền” lập ngày 20/9/2016 có chữ ký và dấu vân tay của bà S.
Tại biên bản lấy lời khai, biên bản đối chất và tại phiên tòa hôm nay bị đơn bà Phan Thị S trình bày:
Bà thừa nhận có vay tiền của bà G, tuy nhiên số tiền bà vay không phải là 40.000.000 đồng theo “giấy mƣợn tiền” lập ngày 20/9/2016 mà thực tế vào khoảng năm 2014 bà vay của bà G số tiền 3.000.000 đồng; lãi suất 12%/tháng; thỏa thuận mỗi ngày bà phải trả cho bà G số tiền 120.000 đồng; mục đích vay để bà tiêu xài cá nhân, không dùng để chữa bệnh cho chồng, và làm sổ đỏ, mua xe bánh mì như nguyên đơn trình bày. Do bà trả tiền không đúng nhƣ thỏa thuận nên vào năm 2015 bà G cộng cả lãi và gốc lên số tiền 13.000.000 đồng. Sau đó, bà đã trả cho bà G nhiều lần, nhƣng không nhớ số tiền cụ thể là bao nhiêu. Toàn bộ giấy vay tiền do bà G lập và giữ. Do bà không có khả năng trả đủ số tiền 13.000.000 đồng nên vào ngày 20/9/2016 bà G có hành vi hăm dọa là nếu không ký vào giấy mƣợn tiền thì bà G sẽ đƣa đơn ra Tòa án khởi kiện hoặc nói cho chồng bà biết sự việc nên bà sợ quá và ký tên, lăn tay vào giấy mƣợn tiền do bà G tự lập. Nay, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu trả tiền, bà đồng ý trả 01 lần số tiền 20.000.000 đồng cho bà G sau một tháng. Trƣờng hợp bà G buộc bà phải trả số tiền 40.000.000 đồng, bà đồng ý trả, nhƣng do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên bà xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng. Riêng tiền lãi bà không đồng ý trả.
Tại phiên tòa hôm nay bà S đồng ý trả cho bà G số tiền 20.000.000 đồng và tiền lãi chậm trả đƣợc tính trên số tiền 20.000.000 đồng. Nhƣng bà xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng.
Tại biên bản lấy lời khai bị đơn ông Đỗ Văn C trình bày:
Ông là chồng của bà S, nhƣng ông không biết quan hệ vay mƣợn giữa bà S và bà G và ông cũng không biết bà S vay tiền của bà G mục đích để làm gì. Hàng ngày ông đi làm thuê mƣớn cũng có đủ tiền để tiêu xài nên không phải vay tiền của ai. Bà G cho rằng bà S vay tiền để chữa bệnh cho ông, đi làm sổ đỏ và mua xe bánh mì là không đúng sự thật. Nay, bà G khởi kiện yêu cầu ông cùng bà S trả số tiền nợ gốc 40.000.000 đồng và tiền lãi 8.000.000 đồng là không có căn cứ nên ông không chấp nhận. Nếu bà S có vay tiền của bà G thì bà S phải có trách nhiệm trả cho bà G.
Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của ngƣời tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trƣớc thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã đƣợc Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh tụng của những ngƣời tham gia tố tụng tại phiên tòa, nhận thấy nguyên đơn căn cứ vào giấy mƣợn tiền ngày 20/9/2016 khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ gốc 40.000.000 đồng và lãi do chậm thanh toán số tiền 1.500.000 đồng là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận. Đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc ông Đỗ Văn C cùng bà S trả số tiền nợ gốc và lãi là không có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về tố tụng: Bị đơn ông Đỗ Văn C có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông C. Ông Phạm Văn H là chồng của bà Nguyễn Thị G xác định số tiền bà G cho bà S, ông C vay là tài sản riêng của bà G, không có liên quan gì đến ông và đề nghị Tòa án không đƣa ông vào tham gia tố tụng với tƣ cách là ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xét, đề nghị của ông H là phù hợp nên Hội đồng xét xử quyết định không đƣa ông H vào tham gia tố tụng trong vụ án.
Về nội dung: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay bà S thừa nhận có ký và lăn tay vào “giấy mƣợn tiền” lập ngày 20/9/2016. Xét, đây là tình tiết sự kiện không phải chứng minh theo Điều 92 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Nguyên đơn căn cứ vào giấy mƣợn tiền lập ngày 20/9/2016 để khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Phan Thị S, ông Đỗ Văn C trả cho bà số tiền nợ gốc 40.000.000 đồng và tiền lãi suất 8.000.000 đồng. Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện về mức lãi suất, nguyên đơn chỉ yêu cầu mức lãi suất là 0,75%/tháng tính từ ngày 21/10/2016 đến ngày 21/3/2017. Xét thấy, việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không vƣợt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu nên được Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại Khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bị đơn bà Phan Thị S cho rằng vào khoảng năm 2014, bà có vay của bà G số tiền 3.000.000 đồng; lãi suất 12%/tháng; thỏa thuận mỗi ngày bà phải trả cho bà G số tiền 120.000 đồng. Do bà trả tiền không đúng nhƣ thỏa thuận nên bà G viết giấy thể hiện bà còn nợ của bà G cả gốc và lãi là 13.000.000 đồng. Sau đó, nhiều lần bà trả tiền cho bà G, nhƣng không nhớ số tiền cụ thể là bao nhiêu. Vào ngày 20/9/2016 bà G có hành vi hăm dọa là nếu không ký vào giấy mƣợn tiền thì bà G sẽ đƣa đơn ra Tòa án khởi kiện hoặc nói cho chồng bà biết sự việc nên bà sợ quá và ký tên, lăn tay vào giấy mƣợn tiền có nội dung bà S mượn của bà G số tiền 40.000.000 đồng. Nhƣng bà S không đƣa ra đƣợc chứng cứ để chứng minh. Mặt khác, lời trình bày của bà S cũng không đƣợc phía nguyên đơn thừa nhận nên không có cơ sở chấp nhận.
Căn cứ vào “giấy mƣợn tiền” lập ngày 20/9/2016 thì hai bên thỏa thuận số tiền bà G cho bà S vay là 40.000.000 đồng, thời hạn trả sau một tháng, tức là ngày 20/10/2016 bà S phải trả cho và G, nhƣng đến nay bà S chƣa trả là đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn nên việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải có trách nhiệm trả một lần cho nguyên đơn số tiền nợ gốc 40.000.00 đồng là có căn cứ chấp nhận.
Đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn trả tiền lãi đối với khoản nợ vay 40.000.000 đồng ngày 20/9/2016 theo mức lãi suất 0.75%/tháng tính từ ngày 21/10/2016 đến ngày 21/3/2017 là 1.500.000 đồng đồng là phù hợp theo quy định của pháp luật nên đƣợc Hội đồng xét xử chấp nhận.
Đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc ông Đỗ Văn C chịu trách nhiệm cùng bà S trả tiền nợ gốc và nợ lãi cho nguyên đơn. Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay bà S xác định việc bà vay tiền của bà G, bà không cho ông C biết; mục đích bà vay tiền là để tiêu xài cá nhân, không liên quan đến ông C. Tại biên bản lấy lời khai ngày 09/3/2017 ông C cũng xác định việc bà S vay mƣợn tiền của bà G nhƣ thế nào ông không biết và cũng không nghe bà S nói gì; số tiền bà S vay của bà G không sử dụng chung trong gia đình; ông C có việc làm và có thu nhập ổn định nên không phải vay mƣợn tiền của ai. Mặt khác, nguyên đơn cho rằng số tiền bà S vay của nguyên đơn mục đích để sử dụng chung trong gia đình, chữa bệnh cho ông C, mua xe bánh mì và làm sổ đỏ, nhƣng nguyên đơn không đƣa ra đƣợc chứng cứ để chứng minh cho lời trình bày của mình nên không có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc ông Đỗ Văn C cùng bà S trả tiền nợ gốc và nợ lãi cho nguyên đơn.
Qúa trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay bà S đồng ý trả số tiền nợ gốc 20.000.000 đồng và nợ lãi tính trên số tiền 20.000.000 đồng cho bà G, nhƣng do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên bà xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng. Tuy nhiên, yêu cầu của bà S không đƣợc bà G đồng ý nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận theo yêu cầu của bà S.
Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là có căn cứ nên đƣợc Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về án phí: Bà S phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Khoản 3 Điều 26; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều 147; Khoản 1 Điều 228; Khoản 1 Điều 244; Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 471; Điều 474; Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội khóa 14 qui định về án phí, lệ phí của Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị G về việc tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản đối với bị đơn bà Phan Thị S.
Buộc bà Phan Thị S trả cho bà Nguyễn Thị G số tiền nợ gốc 40.000.000 đồng và tiền lãi 1.500.000 đồng. Tổng cộng bà Phan Thị S phải trả cho bà Nguyễn Thị G số tiền 41.500.000 đồng (bốn mƣơi mốt triệu năm trăm ngàn đồng).
Kể từ ngày ngƣời đƣợc thi hành án có đơn yêu cầu thi hành cho đến khi thi hành xong, nếu ngƣời phải thi hành án chậm thi hành, thì còn phải chịu lãi suất 10%/năm tƣơng ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị G về việc buộc ông Đỗ Văn C cùng bà Phan Thị S thanh toán số tiền nợ gốc và nợ lãi cho bà Nguyễn Thị G.
3. Án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Phan Thị S phải nộp 2.075.000 đồng (hai triệu không trăm bảy mƣơi lăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Trả cho bà Nguyễn Thị G số tiền 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0004104 ngày 16/02/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.
Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đƣợc bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án này đƣợc thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người đƣợc thi hành án dân sự, ngƣời phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 25/2017/DS-ST ngày 05/04/2017 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản
Số hiệu: | 25/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/04/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về