TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 251/2020/HS-ST NGÀY 02/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 02 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 250/2020/HSST ngày 29 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 219/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Đình Kh (tên gọi khác: Tr), sinh ngày 17/9/1996 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: 12/364 C, phường P, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Ph, sinh năm 1976 và bà Võ Thị Th, sinh năm 1980; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Có 01 tiền sự: Ngày 17/02/2020, bị Công an phường Ph xử phạt hành chính 1.500.000đồng về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tiền án: Có 03 tiền án:
- Ngày 24/3/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 47/2015/HSST);
- Ngày 01/8/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm (Bản án số 152/2016/HSST);
- Ngày 06/3/2018, bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử phúc thẩm, xử phạt 02 tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tăng nặng định khung hình phạt là tái nguy hiểm (Bản án số 26/2018/HSPT).
Quá trình nhân thân:
Lúc nhỏ ở với gia đình tại phường Ph, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, học đến lớp 9/12 thì nghỉ.
Năm 2012, 03 lần bị Công an thành phố H xử phạt “ Cảnh cáo” về hành vi “ Sử dụng trái phép chất ma tuý” và “Trộm cắp tài sản”, sau đó Ủy ban nhân dân thành phố Huế quyết định đưa vào trường giáo dưỡng với thời hạn 02 năm.
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/8/2020, sau đó chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố H cho đến nay. Có mặt.
Bị hại: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1972.
Địa chỉ: A35 T, xã Ph, huyện Ph, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.
Người làm chứng:
Ông Nguyễn Ph, sinh năm: 1977.
Địa chỉ: 14/364 C, phường Ph, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 19/8/2020, Nguyễn Đình Kh đột nhập từ cửa sau tầng 2 nhà mình sang sân thượng nhà của em ông nội của Kh là ông Nguyễn C, tại 14/364 C, phường Ph, thành phố H với mục đích trộm cắp tài sản. Khi xuống tầng 01, Kh nhìn thấy cô ruột của mình là bà Nguyễn Thị T (sinh năm 1972) đang nằm ngủ trên giường, bên cạnh có để 01 túi xách. Kh liền chồm qua người bà T lấy trộm chiếc túi xách. Bà T nghe tiếng động kêu “Trộm, trộm” thì Kh bỏ chạy ra phía cửa trước nhà (nhà không khóa cửa) tẩu thoát. Kh chạy đến kiệt 368 C thì dừng lại mở túi xách lấy toàn bộ tiền bỏ vào túi quần, còn túi xách và các tài sản khác Kh vứt xuống sông H, rồi đi đến khu vực ngã ba N - N ngồi chơi thì bị lực lượng Công an phường Ph phát hiện và thu giữ toàn bộ số tiền Kh trộm được là 4.040.000đồng, còn túi xách và tài sản khác không thu giữ được.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 212/KL-HĐĐG ngày 23/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố H kết luận qua hồ sơ, tại thời điểm bị chiếm đoạt: 01 túi xách trị giá 20.000đồng (Hai mươi nghìn đồng).
Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra Công an thành phố H đã xử lý vật chứng trả lại 4.040.000đồng cho bị hại. Bà Nguyễn Thị T đã nhận lại tiền và không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Tại bản Cáo trạng số 260/CT-VKS-HS ngày 26/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố bị cáo Nguyễn Đình Kh về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế giữ nguyên truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình Kh phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đình Kh từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.
Về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra Công an thành phố H đã xử lý vật chứng trả lại 4.040.000đồng cho bị hại. Bà Nguyễn Thị T đã nhận lại tiền và không yêu cầu bồi thường gì thêm, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Đình Kh phải chịu theo luật định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 19/8/2020, tại nhà số 14/364 C, phường Ph, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, Nguyễn Đình Kh đã lén lút chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị T 01 túi xách bên trong có số tiền 4.040.000đồng, túi xách qua định giá có giá trị 20.000đồng. Tổng tiền bị cáo chiếm đoạt là 4.060.000đồng. Tại bản án hình sự phúc thẩm số 26/2018/HSPT, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt bị cáo 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung tăng nặng là Tái phạm nguy hiểm, ngày 21/7/2019 bị cáo Kh chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích, nhưng lại tiếp tục phạm tội. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Nguyễn Đình Kh về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo Nguyễn Đình Kh là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng do muốn có tiền tiêu xài, bị cáo đã có hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có quá trình nhân thân xấu, có 3 tiền án, 01 tiền sự, nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, cần xử phạt bị cáo với mức phạt thích đáng tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, thành khẩn khai báo là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
[3] Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là đúng theo quy định của pháp luật.
[4] Về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự:
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế đã trả lại cho bị hại số tiền 4.040.000đồng, bà T không có yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Đình Kh phải chịu theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình Kh phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình Kh (tên gọi khác: Tr) 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 19/8/2020.
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
- Bị cáo Nguyễn Đình Kh phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng).
4. Án sơ thẩm xét xử công khai, bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 251/2020/HS-ST ngày 02/12/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 251/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về