Bản án 251/2017/HNGĐ-ST ngày 29/09/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN SƠN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 251/2017/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 9 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 204/2017/TLST- HNGĐ, ngày 18/8/2017 về Tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2017/QĐXXST-HNGĐ, ngày 11/9/2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Ma Thị K, sinh năm: 1990;

Địa chỉ: Thôn Đ, xã X, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang;

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1988;

Địa chỉ: Thông Đ, xã X huyện Y, tỉnh Tuyên Quang;

(Chị K có đơn xin xử vắng mặt, anh C vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai chị Ma Thị K trình bày: Vợ chồng chị quen biết, tự do tìm hiểu và tự nguyện đi đến hôn nhân, được cưới hỏi theo phong tục, ngày 05/01/2013  đăng ký kết hôn tại UBND xã X, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn vợ chồng chị làm ăn, sinh sống tại thôn Đ, xã X. Quá trình chung sống hoà thuận hạnh phúc được thời gian ngắn. Sau khi chị sinh con thì anh C không làm gì, thường uống rượu say và đánh chị, gây sự với bố mẹ đẻ. Chị về ở nhà mẹ đẻ (Thôn N, xã K), sống ly thân với anh C được 03 năm. Nay chị xác định không còn tình cảm với anh C, chị xin ly hôn anh C.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Văn C có 01 con chung là cháu Nguyễn Đức T, sinh ngày 27/12/2012. Khi ly hôn, chị xin trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị và anh C không có tài sản chung gì đáng kể, không đề nghị Toà án chia.

Về vay, nợ chung: Chị và anh C không vay, nợ của ai.

Qúa trình giải quyết vụ án Toà án tống đạt thông báo thụ lý vụ án cho anh C. Anh C không trình bày ý kiến. Toà án lấy lời khai anh C, anh C có trình bày nhưng không ký biên bản. Anh C trình bày không muốn ly hôn vì để cùng nhau nuôi dạy con. Anh xác định chị K đi làm ăn xa có quan hệ ngoại tình.

Toà án ra thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, tống đạt hợp lệ cho anh C nhưng anh C không đến. Toà án tiến hành phiên họp tại nơi anh C đang có mặt (Thôn N, xã K) nhưng anh C không hợp tác làm việc nên không tiến hành hoà giải được.

Chị Ma Thị K có đơn xin xử vắng mặt.

Anh Nguyễn   Văn C đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 đến phiên toà nhưng vẫn vắng mặt.

Kết quả xác minh với trưởng thôn Đ, xã X: Mâu thuẫn của chị K, anh C là chị K kể với ông là anh C uống rượu đánh, chửi chị K. Chị K đi làm xa cách đây khoảng hơn 02 năm. Đến tết nguyên đán năm 2017 chị K có về nhà ở thôn Đ khoảng 1, 2 ngày rồi đi từ đó đến nay không về ở thôn Đ. Anh C chị K có 01 con chung. Trước đây thấy có lúc cháu ở vớ bà nội ở thôn Đ, có lúc chị K đón đi. Tai thời điểm xác minh thì cháu con anh C, chị K không ở cùng bà nội và anh C. Anh C, chị K không có tài sản gì chung, có vay nợ gì của ai hay không thì thôn không rõ.

Kết quả xác minh với ông Nguyễn Văn CH, là bố của anh C. Ông CH cho biết: Anh Nguyễn  Văn C nhiều năm nay thường hay uống rượu say, đập phá tài sản gia đình, trộm cắp vặt, đe doạ đánh bố mẹ, đánh vợ. Đề nghị Toà án giải quyết cho chị K ly hôn anh C.

Bà Hoàng Thị D, là mẹ anh C cho biết: Mâu thuẫn của anh C, chị K do chị K đi làm ăn xa, không gửi tiền về. Chị K gọi điện thoại với người đàn ông khác. Chị K đã bỏ đi về nhà mẹ đẻ chị K đã lâu. Chị K xin ly hôn đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Thẩm phán thực hiện đúng quy định của Điều 28, 48 Bộ luật Tố tụng Dân sự, xác định đúng quan hệ tranh chấp, tư cách của người tham gia tố tụng; tiến hành tống đạt các văn bản cho đương sự, gửi cho Viện kiểm sát đúng thời hạn quy định.

Nguyên  đơn  thực hiện  đúng  các quyền, nghĩa vụ  theo  quy định  của BLTTDS. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS.

Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng trình tự, thủ tục được quy định tại chương XIV của BLTTDS.

Về nội dung: Đề nghị xử cho chị Ma Thị K ly hôn anh Nguyễn  Văn C; Về con chung: Giao cho chị K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Nguyễn Đức T, sinh ngày 27/12/2012, Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị K phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn. Tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Tòa án nhận định:

(1) Chị Ma Thị K, anh Nguyễn  Văn C cùng cư trú tại thôn Đ, xã X, huyện Y. Chị K có đơn khởi kiện ly hôn, đề nghị giao nuôi con chung. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang theo quy định của các Điều 28, 35 và Điều 39 BLTTDS.

(2) Vụ án đươc thông báo hoà giải nhưng anh C không có mặt, không hợp tác làm việc do đó không tiến hành hoà giải được. Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử, tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử hợp lệ cho các đương sự. Anh C vắng mặt. Toà án hoãn phiên toà, tống đạt hợp lệ cho các đương sự Quyết định hoãn phiên toà. Anh C vẫn vắng mặt. Chị K có đơn xin xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 228 BLTTDS Toà án xét xử vụ án.

(3) Hôn nhân của chị Ma Thị K và anh Nguyễn  Văn C trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền do đó hôn nhân là hợp pháp. Cuộc sống chung chị K, anh C phát sinh mâu thuẫn từ năm 2013. Chị K đi làm ăn xa, thường xuyên không chung sống cùng anh C. Từ đầu năm 2017 chị K đưa con về nhà mẹ đẻ ở thôn N, xã K sống ly thân với anh C. Anh C thường uống rươu say, đập phá tài sản, đe doạ đánh bố mẹ, đánhvợ. Cuộc sống chung của anh C, chị K đã không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị K ly hôn anh C.

(4) Con chung: Chị Ma Thị K và anh Nguyễn  Văn C có 01 con chung là cháu Nguyễn Đức T, sinh ngày 27/12/2012. Cháu T chưa đủ 05 tuổi, chị K có nguyện vọng nuôi con nên giao cháu T cho chị K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, anh C không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

(5) Về tài sản chung: Anh chị C K không đề nghị Toà án giải quyết; Vay, nợ chung anh chị K, C không có.

(6) Về án phí: Chị Ma Thị K phải chịu 300.000đ tiền án phí sơ thẩm ly hôn theo quy định của Điều 147 BLTTDS, trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị K đã nộp.

(7) Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 228, 235, 238, 266 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Áp dụng: Các Điều 56, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ma Thị K xin ly hôn anh NguyễnVăn C.

Tuyên xử:

1. Cho chị Ma Thị K ly hôn anh Nguyễn Văn C.

2. Về con chung:

Giao cháu Nguyễn Đức T sinh ngày 27/12/2012 cho chị Ma Thị K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh Nguyễn  Văn C khôngphải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Ma Thị K phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiềnán phí sơ thẩm ly hôn. Trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là theo biên lai số0004359 ngày 18/8/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Chị K đã nộp đủ án phí.

4. Chị Ma Thị K, anh Nguyễn  Văn C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

413
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 251/2017/HNGĐ-ST ngày 29/09/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:251/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Sơn - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:29/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về