Bản án 250/2019/HSST ngày 12/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 250/2019/HSST NGÀY 12/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 6 năm 2019 tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố TN, xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 290/2019/HSST ngày 24 tháng 5 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 272/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2019 đối với:

Bị cáo: Trần Cao C, sinh ngày 10/12/1981. ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 17, phường GS, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 09/12; nghề nghiệp:Không; Con ông Trần Minh T, sinh năm 1949, con bà Nguyễn Thị Th (Đã chết); gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ hai. Chưa có vợ con.

- Tiền án:

+ Tại bản án số 209/2016/HSST ngày 29/7/2016 của Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt 21 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 21/01/2018.

- Tiền sự:

+ Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 115 ngày 09/12/2014, Công an phường PĐP, thành phố TN xử phạt hành chính 750.000đ về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

+ Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0001858 ngày 26/8/2015, Công an thành phố TN xử phạt hành chính 1.500.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

- Nhân thân:

+ Tại bản án số sơ thẩm số 75/1999/HSST ngày 21/4/1999 của Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 12 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản của công dân”, Bản án phúc thẩm số 37/2000/HSPT ngày 16/3/2000 Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt 21 tháng tù về tội “Cướp tài sản của công dân”. Ra trại ngày 14/12/2000. Đã chấp hành xong án phí ngày 21/7/2008.

+ Tại bản án số 115/2006/HSST ngày 15/6/2006 của Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong án phí ngày 28/3/2008.

+ Tại bản án số 169/2008/HSST ngày 12/9/2008 của Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong án phí ngày 24/6/2009. Ra trại ngày 14/3/2010

+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 286 ngày 18/3/1999 Công an thành phố TN xử phạt hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Trộm cắp vặt”.

+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 07 ngày 18/10/2004 Công an phường Gia Sàng, thành phố TN xử phạt hành chính 50.000đ về hành vi “Trộm cắp vặt”.

+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 12 ngày 17/5/2005 Công an phường Gia Sàng, thành phố TN xử phạt hành chính 50.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/02/2019 đến nay (Có mặt tại phiên tòa )

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1979 (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ 1, phường GS, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên

Người chứng kiến:

1/. Ông Vũ Văn Th, sinh năm 1958.

Trú tại: Tổ 33, phường PĐP, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.

2/. Anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1988.

Trú tại: Tổ 8, phường PĐP, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.

(Đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 00 phút ngày15/02/2019, tổ công tác Công an phường PĐP, thành phố TN làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 33 của phường phát hiện một nam thanh niên đi xe mô tô BKS 20F7- 0180 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiếp cận yêu cầu kiểm tra, đối tượng khai nhận là Trần Cao C và tự giác giao nộp từ trong túi áo khoác bên phải một gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng (C khai đó là Heroine). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với C, thu giữ niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Trần Cao C có khối lượng 0,190 gam và lấy mẫu vật gửi giám định ký hiệu C.

Tại bản kết luận giám định số 427/KL-PC09 ngày 22/02/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu C thu giữ của Trần Cao C là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,190 gam.

Tại cơ quan điều tra, Trần Cao C khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy, nên khoảng 07 giờ 00 phút ngày 15/02/2019, C điều khiển xe mô tô BKS 20F7- 0180 từ nhà đến khu vực ngã ba Tích Lương, thành phố TN để tìm mua Heroine. Tại đây C gặp và mua 01 gói Heroine từ 01 người đàn ông không rõ lai lịch với giá 100.000đ. Sau khi mua xong C cất ma túy vào trong túi áo phía trước bên phải đang mặc và đi về nhà để sử dụng. Khi về đến nhà thì có một người bạn tên H đến rủ C lên nhà bác của H chơi, C đồng ý và mang theo gói ma tuý ở trong người đi cùng H, H điều khiển xe mô tô BKS 20F7-0180 chở C đi. Khi đi đến khu vực ngã ba Bắc Nam thì H dừng xe lại để H vào nhà bác của H, còn C đứng đợi ở ngoài. Khi H đi được khoảng 5 phút thì tổ công tác Công an phường PĐP phát hiện kiểm tra, C tự giác giao nộp cho tổ công tác một gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng. Sau đó tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Lời khai của Trần Cao C phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và những chứng cứ tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án:

- Một bì niêm phong ký hiệu C, bên trong chứa chất ma túy loại Heroine.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel màu đen đã cũ có số IMEL 1: 354586090257502 và IMEL2:354586090257510.

- 01 xe mô tô BKS 20F7-0180 màu xanh, số khung: LCIP52FMH00703904, số máy LCIP52FMH00703904

Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 298/CT-VKSTPTN ngày 23 tháng 5 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo Trần Cao C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Trong phần luận tội tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các căn cứ, đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Cao C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Bị cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm”quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự ; xử phạt Trần Cao C từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù giam.

Về hình phạt bổ sung: Xét nhân thân và điều kiện kinh tế của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và điều 47 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử:

Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong theo đúng quy định ký hiệu C.

Tạm giữ của Trần Cao C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel màu đen đã cũ có số IMEL 1: 354586090257502 và IMEL2:354586090257510 để đảm bảo thi hành án.

Hoàn trả cho Nguyễn Văn H 01 xe mô tô BKS 20F7-0180 màu xanh, số khung: LCIP52FMH00703904, số máy LCIP52FMH00703904

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến cũng không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và vật chứng thu giữ. Do vậy, Hội đồng xử có đủ căn cứ kết luận : Hồi 9 giờ 00 phút ngày 15/02/2019, tại khu vực tổ 33, phường PĐP, thành phố TN, Trần Cao C đang có hành vi tàng trữ 0,190 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Bị cáo đã biết ma túy là chất cấm, được Nhà nước quản lý nhưng vẫn cố tình tàng trữ để sử dụng cho bản thân với khối lượng Heroine là 0,190 gam. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy , ... thuộc một trong ccá trường hợp sau đây thì bị phạt từ từ 01 năm đến 05 năm:

…….

c, Heroin …có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05gam .

[4]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy mà còn là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác, làm khánh kiệt về kinh tế, suy kiệt giống nòi, do đó Đảng và Nhà nước ta đã kiên quyết bài trừ tệ nạn này ra khỏi xã hội, bị cáo lại là người có đầy đủ nhận thức về tác hại của ma túy nhưng vẫn phạm tội. Do vậy, hành vi của bị cáo phải xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và ngăn ngừa tội phạm chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, có nhân thân xấu, bản thân đang có tiền án về tội ”Trộm cắp tài sản” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là ”Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy cần phải có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để bị cáo thấy được sự nghiêm khắc của pháp luật, biết tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành người lương thiện. Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa là phù hợp.

[5] Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Cần tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong theo đúng quy định ký hiệu C.

Xác định bị cáo không sử dụng chiếc điện thoại thoại di động nhãn hiệu Viettel màu đen đã cũ có số IMEL 1: 354586090257502 và IMEL2:354586090257510 vào việc phạm tội, nên sẽ tạm giữ để đảm bảo thi hành án đối với Trần Cao C.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 20F7-0180 màu xanh, số khung: LCIP52FMH00703904, số máy LCIP52FMH00703904 của Nguyễn Văn H, do H gửi ở nhà C và không biết C sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả cho Nguyễn Văn H.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, tuy nhiên tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ theo Trần Cao C khai mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực ngã ba Tích Lương, thành phố TN. Qúa trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có cơ sở làm rõ để xử lý.

Đối với Nguyễn Văn H là người cho Trần Cao C mượn xe mô tô BKS 20F7-0180, quá trình điều tra xác định H không biết C mượn xe của mình để đi mua ma túy nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có cơ sở điều tra làm rõ xử lý đối với H.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Cao C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Cao C 24 (Hai mươi tư) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 15/02/2019.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, quyết định tạm giam bị cáo Trần Cao C 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu C.

- Tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel màu đen đã cũ có số IMEL 1: 354586090257502 và IMEL2:3545860902257510 của Trần Cao C để đảm bảo thi hành án.

- Hoàn trả cho Nguyễn Văn H 01 xe mô tô BKS 20F7-0180 nhãn hiệu HONGCIN; số khung: HC 110*0703904; số máy FMH*00703904; dung tích xilanh 108; loại xe: Hai bánh từ 50-175cm3; số loại 110; Màu sơn: Xanh; không gương.

(Biên bản giao nhận vật chứng số 333 ngày 27/5/2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN và Công an thành phố TN)

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Cao C phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 250/2019/HSST ngày 12/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:250/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về