Bản án 250/2018/HNGĐ-ST ngày 25/10/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 250/2018/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 25 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:1005/2018/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 9 năm 2018 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 330/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1978.

- Bị đơn: Anh Trần Quốc Th, sinh năm 1972.

Cùng địa chỉ: Ấp Bình T 2, xã Đ, huyện Đ, tỉnh L. (Các đương sự có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 05 tháng 9 năm 2018, chị Nguyễn Thị Thanh T trình bày: Chị với anh Trần Quốc Th kết hôn với nhau vào năm 1998, đến năm 2007 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Trong thời gian đầu sống chung vợ chồng có hạnh phúc nhưng kể từ đầu năm 2018 thì vợ chồng luôn phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên chị và anh Th tuy sống chung nhà nhưng không còn quan tâm với nhau nữa. Thấy rằng vợ chồng sống chung không có hạnh phúc nên chị xin ly hôn với anh Th.

Quá trình chung sống, chị và anh Th có 02 con chung tên Trần Quốc T sinh năm 1999 và Trần Nguyễn Gia Y sinh ngày 10/9/2007.

Tài sản chung: Chị và anh Th có tài sản chung gồm: 01 xe mô tô hiệu Future biển số 62T2-0557 và 01 xe hiệu Airblade biển số 62P1-36102 do chị đứng tên giấy chứng nhận đăng ký và 01 chiếc xe hiệu Wave biển số 62H3- 5282 do anh Th đứng tên giấy chứng nhận đăng ký.

Nợ chung: Chị và anh Th không có nợ ai.

Khi ly hôn con chung tên Trần Quốc T đã trưởng thành nên chị không yêu cầu giải quyết, còn Trần Nguyễn Gia Y sinh ngày 10/9/2007, có nguyện vọng ở với chị thì chị nuôi, ở với anh Th thì anh Th nuôi, không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con và cũng không yêu cầu giải quyết chia tài sản chung.

Anh Trần Quốc Th trình bày: Điều kiện kết hôn, con chung, tài sản chung, nợ chung như chị T trình bày là đúng nhưng vợ chồng sống chung không có mâu thuẫn gì trầm trọng nên anh không đồng ý ly hôn. Nếu Tòa án có căn cứ cho ly hôn thì con chung tên Trần Nguyễn Gia Y có nguyện vọng ở với anh thì anh nuôi, ở với chị T thì chị Thời nuôi, không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con và anh cũng không yêu cầu giải quyết chia tài sản chung.

Tại văn bản ngày 08/10/2018, con chung của chị T và anh Th tên Trần

Nguyễn Gia Y có nguyện vọng ở với anh Th khi chị T và anh Th ly hôn.

Tại phiên tòa, chị T giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh Th, nếu con chung có nguyện vọng ở với chị thì chị nuôi, ở với anh Th thì anh Th nuôi, không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con chung và cũng không yêu cầu giải quyết chia tài sản chung. Đối với anh Th thì vẫn không đồng ý ly hôn nhưng nếu Tòa án có căn cứ cho ly hôn thì con chung có nguyện vọng ở với anh thì anh nuôi, ở với chị T thì chị T nuôi, không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con chung và cũng không yêu cầu giải quyết chia tài sản chun

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về tố tụng:

1.1.Chị Nguyễn Thị Thanh T xin ly hôn với anh Trần Quốc Th là thuộc quan hệ tranh chấp về hôn nhân và gia đình.

1.2. Anh Trần Quốc Th là bị đơn có địa chỉ tại ấp Bình T 2, xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2] Về nội dung:

2.1. Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Trần Quốc Th kết hôn với nhau vào năm 1998, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An vào năm 2007 là phù hợp theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

2.2. Chị Nguyễn Thị Thanh T cho rằng chị và anh Trần Quốc Th đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Th không chăm lo gia đình, tiền công anh Th đi làm có được không giao hết cho chị mà đưa theo hình thức “tiền phát, gạo đong” nên chị cảm thấy chán nãn. Từ đó tình cảm của chị đối với anh Th không còn nữa, nên chị xin ly hôn với anh Th.

2.3. Đối với anh Trần Quốc Th cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn gì trầm trọng mà chỉ cãi vã nhau chứ không hề có bạo lực, lý do chị T xin ly hôn với anh là không chính đáng nên không đồng ý ly hôn mà tha thiết xin đoàn tụ.

2.4. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị T với anh Th là chưa đến mức trầm trọng. Tuy nhiên chị T và anh Th xác định tuy sống chung nhà nhưng chị T và anh Th không còn quan tâm với nhau nữa. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã hòa giải thuyết phục để chị T và anh Th đoàn tụ nhưng chị T cương quyết xin ly hôn vì xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh Th. Qua đó thấy rằng cần thiết cho chị T ly hôn với anh Th là phù hợp theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

2.5. Về con chung: Xét thấy con chung của chị T và anh Th tên Trần Nguyễn Gia Y có nguyện vọng ở với anh Th nên tiếp tục giao con tên Gia Y cho anh Th nuôi là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, anh Th không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con, đồng thời chị T và anh Th cũng không yêu cầu giải quyết chia tài sản chung và cũng không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

 [3]. Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết  326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc chị Nguyễn Thị Thanh T phải chịu án phí ly hôn sung công quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Điều 9, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thanh T về việc xin ly hôn với anh Trần Quốc Th: Chị Nguyễn Thị Thanh T được ly hôn với anh Trần Quốc Th.

2.Con chung: Anh Trần Quốc Th được tiếp tục nuôi con chung tên Trần Nguyễn Gia Y sinh ngày 10/9/2007, chị T không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Khi cần thiết các đương sự có quyền xin thay đổi tình trạng nuôi con.

3. Tài sản chung: Tự thỏa thuận.

4. Nợ chung: Không có.

5. Án phí: Buộc chị Nguyễn Thị Thanh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sung công quỹ Nhà nước. Số tiền này được chuyển từ tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0003234 ngày 05/9/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa sang án phí để thi hành, chị T không phải nộp tiếp.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ tuyên án,

 “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 250/2018/HNGĐ-ST ngày 25/10/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:250/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về