Bản án 248/2018/HS-ST ngày 12/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 248/2018/HS-ST NGÀY 12/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 12 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 240/2018/TLST- HS ngày 03 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 255/2018/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lường Văn A. Tên gọi khác: Không; sinh năm 1975 Tại: Điện Biên.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản H, xã A, huyện M, tỉnh Điện Biên. Chỗ ở: Bản N, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 1/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lường Văn O (đã chết) và con bà: Lò Thị L; chung sống như vợ chồng với Lò Thị T và có 04 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không; bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 15/7/2018. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 14/7/2018, Lường Văn A đi bộ đến bản H, xã N, huyện Điện Biên tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến bản H, xã N, A mua được 01 gói heroine và 03 viên Methamphetamine với giá 650.000 đồng của một người phụ nữ dân tộc H'Mông (không biết tên và địa chỉ). Sau đó, A mang về nhà ở bản N, xã M, huyện Điện Biên lấy một ít ra sử dụng. Số heroine còn lại cùng 03 viên Methamphetamine A cất dưới đệm nơi A ngủ. Khoảng 13 giờ ngày 15/7/2018, A tiếp tục lấy một ít heroine ra sử dụng và dùng dao lam chia số heroine ra thành 08 gói và dùng nilon màu trắng và màu hồng gói lại thành 05 gói. A cất giấu 01 gói heroine vào túi áo khoác màu xám treo ở cột nhà chỗ đệm nơi A ngủ. Do biết nhà chị Lò Thị Ngọc C ở bản N, xã M không có ai ở nhà nên A đã mang 04 gói heroine còn lại và 03 viên Methamphetamine sang nhà chị C để sử dụng. Tại nhà chị C, A đã dùng dao lam cắt một ít heroine ra sử dụng, sau đó gói lại và cất giấu tất cả xuống dưới đệm ngủ. Hồi 14 giờ 50 phút cùng ngày, khi A đang ở nhà chị C thì bị tổ công tác Công an huyện Đ phối hợp với Công an xã M và đồn Biên Phòng M phát hiện bắt quả tang thu giữ 04 gói heroine; và 03 viên Methamphetamine; 01 dao lam; 01 mảnh giấy bạc; 01 bật lửa ga màu đỏ. Hồi 16 giờ 30 phút cùng ngày, Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp nơi ở của Lường Văn A, thu giữ trong túi áo khoác màu xám treo ở cột nhà chỗ đệm nơi A ngủ 01 gói heroine được gói bằng nilon màu trắng.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 16/7/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên và Kết luận giám định số: 682/GĐ - PC54 ngày 25/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã xác định số vật chứng thu giữ của Lường Văn A gồm: Chất bột màu trắng thu giữ của Lường Văn A là ma túy, loại heroine có khối lượng 6,53 gam; Mẫu viên nén màu hồng là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,31 gam.

Tại bản Cáo trạng số 184/CT-VKSĐB ngày 01/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Lường Văn A về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm n khoản 2 Điều 249/BLHS.

Tại phiên toà , đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận : Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy " đề nghị Hội đồng xét xử ap dụng Điểm n khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Xử phạt bị cáo Lường Văn A từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 6,53 gam heroine (Đã trích 0,32 gam gửi giám định không hoàn lại); 0,31 gam Methamphetamine (Đã trích 0,1 gam gửi giám định không hoàn lại); 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 mảnh giấy bạc đã đốt cháy phần giấy; 01 chiếc dao lam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòaán. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo không tranh luận gì thêm. Hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã xuất trình những chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 15/7/2018, bị cáo Lường Văn A đã có hành vi cất giấu 6,53 gam heroine và 0,31 Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Khi bị cáo cất giấu ma túy tại nhà của Lò Thị Ngọc C thì bị tổ công tác Công an huyện Điện Biên phối hợp với Công an xã Mường Nhà và đồn Biên Phòng Mường Nhà phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng. Bị cáo tàng trữ 02 chất ma túy gồm 6,53 gam heroine và 0,31 gam Methamphetamine. Theo quy định tại Điều 4 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì 02 chất ma túy bị cáo tàng trữ đều được quy định trong cùng một điểm của khoản 2 Điều 249/Bộ luật hình sự, cộng tổng khối lượng hai chất ma túy bị cáo tàng trữ là 6,84 gam. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại n khoản 2 Điều 249/BLHS năm 2015. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [3] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện tội phạm do lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đơn giản, chỉ do nghiện ma túy nên đã đi mua ma túy để sử dụng cho bản thân mà không có mục đích nào khác. Tuy nhiên, hành vi đó của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn trong xã hội.

 [4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã A, huyện M, bản thân học hết lớp 1/12 thì bỏ học. Sử dụng ma túy từ năm 2012 cho đến nay. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo. Vì vậy đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS.

 [6] Sau khi xem xét về hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo đã tàng trữ ma túy với khối lượng lớn, bản thân sử dụng ma túy nhiều năm vì vậy cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là hình phạt tù để bị cáo có điều kiện cai nghiện đồng thời để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

 [7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS, ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xong xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, thu nhập chính từ làm nông nghiệp ngoài ra không có nguồn thu nào khác nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [8] Bị cáo đã khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là do bị cáo mua của một người phụ nữ dân tộc Mông, bị cáo không biết tên và địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra làm rõ được. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

 [9] Vật chứng:

Gồm 6,53 gam heroine (Đã trích 0,32 gam gửi giám định không hoàn lại); 0,31 gam Methamphetamine. (Đã trích 0,1 gam gửi giám định không hoàn lại) là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần bị tịch thu tiêu huỷ theo điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015.

Đối với 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 mảnh giấy bạc đã đốt cháy phần giấy; 01 chiếc dao lam bị cáo sử dụng làm công cụ, phương tiện vào việc phạm tội nhưng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy điểm a khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015

 [10] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Tuy nhiên bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, Tại phiên tòa bị cáo đề nghị HĐXX miễn án phí HSST cho bị cáo. Vì vậy theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm n Khoản 2 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lường Văn A phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

2. Xử phạt bị cáo Lường Văn A 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 15/7/2018.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a, cKhoản 2 Điều 106/BLTTHS.

- Tịch thu tiêu huỷ 6,53 gam heroine (Đã trích 0,32 gam gửi giám định không hoàn lại) và 0,31 gam Methamphetamine (Đã trích 0,1 gam gửi giám định không hoàn lại)

- Tịch thu tiêu huỷ 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 mảnh giấy bạc đã đốt cháy phần giấy; 01 chiếc dao lam.

Vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an huyện Điện Biên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên ngày 05/10/2018.

4. Án phí:

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 12/11/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 248/2018/HS-ST ngày 12/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:248/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về