Bản án 248/2018/HNGĐ-ST ngày 21/10/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 248/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/10/2018 VỀ LY HÔN

Trong ngày 22 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 1046/2018/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 311/2018/QĐXX- ST ngày 02 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đào Thị A, sinh năm 1980 (có mặt)

Địa chỉ: Ấp R, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An

2.Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1977 (có mặt)

Địa chỉ: Ấp R, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 14 tháng 9 năm 2018 và trong những lời khai tiếp theo tại Tòa án nguyên đơn chị Đào Thị A trình bày:

Về hôn nhân: chị và anh Nguyễn Văn Tr tự nguyện kết hôn năm 1998. Hai người có đến UBND xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đăng ký kết hôn theo quy định Luật Hôn nhân và gia đình vào ngày 31/10/2012. Cuộc sống chung vợ chồng thời gian đầu hòa thuận hạnh phúc đến tháng 7/2018 thì ly thân nhau cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cãi vã nhau về việc anh Tr thường xuyên uống rượu không lo làm ăn, không quan tâm chăm sóc vợ con, không lo lắng gì cho gia đình. Chị khuyên can thì anh Tr đánh chị, quá trình sống chung anh Tr, chị bị anh Tr đánh thường xuyên đánh cứ trung bình mỗi tháng là 3-4 lần thì bị đánh mà mỗi trận đòn đều nguy hiểm đến tính mạng. Chị đã ly thân anh Tr nhiều lần nhưng vì thương con chị quay về đoàn tụ nhưng anh Tr không thay đổi tính tình vẫn tánh nào tật đó. Cuộc sống chung của chị và anh Tr không mang lại hạnh phúc cho chị mà là những ngày bất hạnh và ám ảnh do sợ bị đánh, bị giết. Chị và các con đã dọn ra nhà trọ sinh sống 03 thán g nay chị cảm thấy hạnh phúc, các con có thời gian và không gian học hành còn ở nhà ngày nào cũng vậy anh Tr uống rượu về la lối chửi bới làm ảnh hưởng đến việc học hành các con…Nay chị thấy tình nghĩa vợ chồng không thể hàn gắn được nên chị xin được ly hôn với anh Tr.

Về con chung: có ba con chung tên Đào Thắng Thành C sinh ngày 01/12/1999 (trưởng thành); Nguyễn Đào Hoài N, sinh ngày 15/6/2008 và Nguyễn Đào Thắng Thành Nh, sinh ngày 24/10/2006. Các con do chị đang nuôi. Khi ly hôn, chị xin được nuôi con không yên cầu anh Trai phải cấp dưỡng.

Tài sản chung: tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: không có

Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn Tr trình bày: Anh thống nhất tình trạng hôn nhân, con chung giữa anh và chị A như chị Ánh nêu. Về mâu thuẫn vợ chồng như chị A nêu là đúng do anh có uống rượu về chị A chửi anh nên anh có đánh chị A. Ngoài ra chị A còn đánh anh, ăn nói hỗn xược với cha anh nên anh có đánh. Nay chị Ánh đòi ly hôn anh không đồng ý còn thương vợ muốn đoàn tụ để nuôi dạy con chung, không đồng ý ly hôn. Nếu như Tòa án chấp nhận đơn ly hôn của chị A đối với anh thì anh xin được nuôi con không yêu cầu chị A cấp dưỡng.

Tài sản chung: tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: không có

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Quan hệ pháp luật tranh chấp là hôn nhân gia đình, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đức Hoà theo quy định tại Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Xét thấy chị Đào Thị A và anh Nguyễn Văn Tr hai người trước khi kết hôn có tìm hiểu nhau thời gian khoảng 4- 5 tháng và tiến đến hôn nhân vào năm 1999 có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An vào ngày 31/10/2012 nên có căn cứ xác định hôn nhân của anh chị là phù hợp pháp luật theo quy định Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Thấy rằng từ khi chung sống, hai người chỉ hạnh phúc thời gian đầu được hai năm như chị A trình bày về sau cuộc sống chung không hợp nhau, cãi vã về việc anh Tr thường xuyên uống rượu không lo làm ăn mà chị có khuyên thì bị đánh nên hai người đã ly thân từ tháng 07/2018 đến nay. Quá trình sống chung hai người cũng ly thân nhiều lần rồi đoàn tụ nhưng hôn nhân không hạnh phúc do anh Tr vẫn tánh nào tật đó. Anh Nguyễn Văn Tr không đồng ý ly hôn nhưng không đưa ra được điều kiện để đoàn tụ. Do đó Hội đồng xét xử thấy rằng chị A và anh Tr hai người đã ly thân từ tháng 7/2018 đến nay cả hai không có thiện chí hàn gắn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cho chị A được ly hôn của anh Tr theo quy định Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: chị A và anh Tr có ba con tên Đào Thắng Thành C sinh ngày 01/12/1999 (trưởng thành); Nguyễn Đào Hoài N, sinh ngày 15/6/2008 và Nguyễn Đào Thắng Thành Nh, sinh ngày 24/10/2006 các con do chị A đang nuôi. Khi ly hôn, chị A xin nuôi các con và không yêu cầu anh Tr cấp dưỡng. Xét các cháu Nh, N có nguyện vọng sống với mẹ là chị A nên Hội đồng xét xử cần giao cháu Nh và N cho chị A nuôi là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2018. Chị A không yêu cầu cấp dưỡng nêu không đề cập xem xét. Cháu C đã trưởng thành nên không đề cập xem xét.

[4] Về tài sản chung: Chị A và anh Tr cho rằng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập xem xét.

[5] Về nợ chung: Chị A và anh Tr thống nhất khai không có không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập xem xét.

[6] Về án phí: Chị A là nguyên đơn trong vụ án phải chịu án phí Hôn nhân gia đình.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 35, Điều, Điều 227, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 9, Điều 56, Điều 58, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Chị Đào Thị A được ly hôn với anh Nguyễn Văn Tr.

2/ Về con chung: chị A tiếp tục được nuôi các con Nguyễn Đào Hoài N, sinh ngày 15/6/2008 và Nguyễn Đào Thắng Thành Nh, sinh ngày 24/10/2006. Anh Tr không cấp dưỡng nuôi con vì chị A không yêu cầu. Vì quyền lợi của trẻ anh Tr được quyền đến thăm nom chăm sóc giáo giục con chung không ai có quyền ngăn cản. Khi cần thiết, anh Tr được quyền xin thay đổi tình trạng nuôi con, chị A được quyền yêu cầu anh Tr cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

3/ Về án phí: chị A phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước, được khấu trừ số tiền đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng mà chị A đã nộp theo biên lai số 3305 ngày 14/9/2018 tại Chi cục thi hành án huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 248/2018/HNGĐ-ST ngày 21/10/2018 về ly hôn

Số hiệu:248/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về