Bản án 246/2020/HS-PT ngày 20/05/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 246/2020/HS-PT NGÀY 20/05/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 20 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự đã thụ lý số: 781/2019/TLPT - HS ngày 09 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Trương Minh T.

Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 404/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo kháng cáo:

Bị cáo Trương Minh T; sinh năm: 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: đường Đ, phường H, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Vận chuyển hàng tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; Cha: Trương Minh T1; Mẹ: Lý Thị Th; hoàn cảnh gia đình: có vợ và 03 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: không; bị bắt giam ngày 11/4/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Đinh Văn T - Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. - Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cáo trạng và nội dung án sơ thẩm nêu hành vi phạm tội của bị cáo như sau:

Lúc 12 giờ 30 ngày 11/4/2019, tại trước nhà số 71/84 đường Ng, Phường 3, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội 2 Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp Công an phường 3, quận T bắt quả tang Trương Minh T đang có hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma túy”; Thu giữ trên baga xe máy biển số 52P4-2547 của T đang điều khiển 01 lốc máy (hộp số) xe ô tô, bên trong có 4454 viên nén tròn màu xanh, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1.447,64 gam loại MDMA và tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 952,96 gam loại Ketamine (Kết luận giám định số 898/KLGĐ-H ngày 19/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hồ Chí Minh).

Quá trình điều tra, Trương Minh T khai là bạn của T2 không rõ lai lịch, ở Campuchia. Tháng 2/2019, T2 bắt đầu thuê T đi nhận lốc máy có chứa ma túy sau đó mang đi giao cho khách và được T2 trả tiền công, cụ thể như sau:

Lần1: Vào cuối tháng 02/2019, T2 sử dụng số điện thoại +855889119991 (số điện thoại Campuchia) gọi cho T và kêu T đến khu vực cầu số 5, đường H, Quận 3 để nhận lốc máy xe ô tô có chứa ma túy, sau đó mang lốc máy đến khu vực cầu T, Quận 2 giao cho một người đàn ông không rõ lai lịch, theo yêu cầu của T2, rồi T về nhà. Vài ngày sau, T2 về Việt Nam gặp T và trả công cho T 5.000.000 đồng.

Lần 2:Vào cuối tháng 3/2019, T2 tiếp tục sử dụng số điện thoại từ Campuchia gọi điện thoại bảo T đi nhận lốc máy tại địa điểm cũ. Sau đó T đi đến khu vực cầu số 5, đường H, Quận 3 để nhận lốc máy rồi đem đến khu vực cầu T, Quận 2 giao cho một người đàn ông không rõ lai lịch theo yêu cầu của T2. Vài ngày sau T2 đến gặp T và trả công cho T 6.400.000 đồng, T thấy nhiều tiền nên hỏi thì T2 cho biết ma túy được cất giấu bên trong cục lốc máy.

Lần 3 : Vào tối ngày 10/4/2019, T nhận tin nhắn của T2 bảo đi nhận lốc máy chứa ma túy, nhưng T không trả lời. Đến sáng ngày 11/4/2019, có một người đàn ông không rõ lai lịch, sử dụng số điện thoại 0918108587 gọi cho T, hẹn T đến khu vực bến xe buýt gần siêu thị M, quận T để nhận lốc máy chứa ma túy, T đồng ý. Tại đây, T gặp một người đàn ông không rõ lai lịch đi xe ô tô hiệu Kumho, màu vàng, mang biển kiểm soát có số đuôi 4797 và người này giao cho T 01 lốc máy chứa ma túy, T nhận rồi bỏ lên baga xe máy của T. Khi T đang trên đường đi giao cho người nhận lốc máy chứa ma túy thì bị Công an bắt quả tang như trên.

Đối với người đàn ông gọi điện thoại cho T để nhận lốc máy chứa ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã gửi công văn đến Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT-VINAPHONE) để xác minh so thoại 0918108587, nhưng đến nay chưa có kết quả.

* Tại bản án hình sự sơ thẩm số 404/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Căn cứ vào điểm h khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Trương Minh T tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 11/4/2019. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

- Án sơ thẩm còn tuyên án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo luật định.

- Ngày 29/10/2019 bị cáo Trương Minh T làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

* Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Trương Minh T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh: Tại phiên tòa phúc thẩm một lần nữa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy là đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ y án sơ thẩm.

Bào chữa cho bị cáo, luật sư phát biểu thống nhất về tội danh như án sơ thẩm. Bản thân bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, bị cáo có con nhỏ, có ông ngoại có công cách mạng, do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ đã được phúc tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ các chứng cứ, lời nhận tội của bị cáo, quan điểm bào chữa của luật sư, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án cao nhất của tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là có căn cứ, bởi vì:

[1] Trong khoảng thời gian từ tháng 2/2019 đến ngày 11/4/2019, Trương Minh T đã 3 lần vận chuyển trái phép chất ma túy. Với thủ đoạn bỏ ma túy vào hộp số xe mô tô, T sử dụng xe mô tô của mình vận chuyển số ma túy trên đi giao cho một đối tượng trong đường dây của đồng bọn. Chỉ tính riêng ngày 11/4/2019 khi bị bắt quả tang lượng ma túy thu giữ được của T là: 4454 viên nén tròn màu xanh, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng là: 1.447,64 gam loại MDMA và tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn có khối lượng là 952,96 gam loại Ketamine. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm h khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi 2017). Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy và sự trừng trị của pháp luật đối với tội phạm ma túy nhưng bị cáo vẫn quyết tâm thực hiện, đây không phải là lần đầu mà trước đó bị cáo đã 2 lần thực hiện hành vi vận chuyển ma túy. Chỉ tính khối lượng ma túy bắt được ngày 11/4/2019 (lần 3) Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng mức hình phạt cao nhất đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp được các tình tiết giảm nhẹ đặc biệt. Do đó không có căn cứ xem xét giảm nhẹ cho bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ y án sơ thẩm. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với chứng cứ có tại hồ sơ và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trương Minh T. Giữ y án sơ thẩm số 404/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi 2017):

Xử phạt: Trương Minh T Tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo Trương Minh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các nội dung khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, bị cáo Trương Minh T có quyền làm đơn gửi lên Chủ tịch Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xin ân giảm án tử hình.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

527
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 246/2020/HS-PT ngày 20/05/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

Số hiệu:246/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về