Bản án 245/2020/HS-ST ngày 27/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 245/2020/HS-ST NGÀY 27/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 239/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 234/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Quang V; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không;Sinh ngày 12 tháng 02 năm 1980; Tại: Phú Yên;Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 14 T, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.Chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố 2 H, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Nguyễn Ngọc C, sinh năm: 1959; Con bà: Võ Thị Thu H, sinh năm: 1957. Hiện đều trú tại: Số 10, tổ dân phố 2 H, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Gia đình bị cáo có 03 anh, em ruột, bị cáo là con đầu; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị M, sinh năm 1981 (đã ly hôn); Bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2003, con nhỏ nhất sinh năm 2010;Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Nhân thân: Sinh ra và lớn lên tại tỉnh Phú Yên, sau đó cùng gia đình chuyển đến sinh sống tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, được cha mẹ nuôi cho ăn học đến lớp 12/12, thì nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình.

Ngày 20/09/1997, bị Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng, về tội: Cướp giật tài sản của công dân (tại bản án số 198/HSST).

Ngày 23/4/2020 có hành vi Trộm cắp tài sản. Ngày 02/5/2020 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột, từ ngày 23/4/2020 cho đến nay.(Có mặt tại phiên tòa).

-Người bị hại:Bà Đỗ Thị Lan H; sinh năm: 1994(Vắng mặt). Địa chỉ: xã E, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk.

-Người liên quan:

Ông Nguyễn Ngọc C; sinh năm: 1959(Có mặt).

Địa chỉ: Tổ dân phố 2 H, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.

-Ngưi làm chứng:

1.Ông Đào Văn K; 1973 (Vắng mặt) Địa chỉ: 139 N, phường T,thành phố B, tỉnh Đăk Lăk

2. Ông Dương Công H; sinh năm: 1998(Vắng mặt). Địa chỉ: phường E,thành phố B, tỉnh Đăk Lăk.

-Ngưi chứng kiến:Bà Trần Thị T; sinh năm 1965; (Vắng mặt) Địa chỉ: 61N, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 23/04/2020, Nguyễn Quang V đón xe ô tô khách đi từ thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đến địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, V mang theo 02 sợi dây thép màu trắng, dài 10cm và đi đến bãi giữ xe mô tô số 1 của Bệnh viện đa khoa Vùng Tây Nguyên thuộc phương Tư An, thành phố Buôn Ma Thuôt , tìm xe mô tô của người dân gửi tại đây sơ hở trong việc quản lý tài sản thì dùng 02 sợi dây thép mở cốp xe tìm kiếm tài sản trộm cắp. Quan sát thấy khu vực trong cùng của bãi giữ xe số 1 có dựng nhiều xe mô tô, không có người trông coi và vắng người qua lại, nên V đi đến một chiếc xe mô tô (chưa xác định đặc điểm, biển số và chủ sở hữu) lén lút sử dụng sợi dây thép đã bẻ cong một đầu vào khe của công tắc bật mở yên xe mô tô, rồi giật mạnh sợi dây thép thì mở được yên của xe mô tô và trộm cắp trong cốp xe được một xấp tiền có tổng trị giá là 3.056.000 đồng. Sau đó, Nguyễn Quang V tiếp tục đi đến chiêc xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade, màu đỏ, trắng, biên sô: 47B1-069.48 của chị Đỗ Thị Lan H (sinh năm 1994, trú tại: Thôn 01, xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma Thuôt), lén lút dùng sợi dây thép mở được yên của xe mô tô và trộm cắp trong cốp xe được một xấp tiền có tổng trị giá là 3.740.000 đông, 04 chiếc nhẫn hình tròn làm bằng kim loại màu vàng, 01 sợi dây chuyền làm bằng kim loại màu vàng, rồi tẩu thoát thì bị anh Đào Văn K (sinh năm 1973, trú tại: 137 đường N, phương T , thành phố B, là nhân viên bảo vệ của Bệnh viện) cùng quần chúng nhân dân bắt giữ V giao cho Cơ quan Công an thành phố Buôn Ma Thuột, xử lý. Tạm giữ của Nguyễn Quang V: 01 sợi dây chuyền làm bằng kim loại màu vàng; 04 chiếc nhẫn hình tròn làm bằng kim loại màu vàng; 01 xấp tiền có tổng trị giá là 3.740.000 đồng; 01 xấp tiền có tổng trị giá là 3.056.000 đồng và 02 sợi dây thép màu trắng, dài 10cm.

Ngày 16/5/2020, ông Nguyễn Ngọc C (sinh năm 1957, trú tại: Số 10, tổ dân phố 2 H, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa, là bố đẻ của Nguyễn Quang V) đã tự nguyện giao nộp 01 chứng minh nhân dân số 225212472 của Nguyễn Quang V (bản gốc), cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột để phục vụ công tác điều tra.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 107/KLĐG, ngày 12/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận:

- 03 nhẫn hình tròn làm bằng vàng, loại vàng 9999, chất lượng vàng 999,9%, trọng lượng 05 chỉ, trị giá: 05 chỉ x 4.500.000 đồng/chỉ = 22.500.000 đồng.

- 01 nhẫn hình tròn bằng kim loại vàng 14k, chất lượng vàng 61%, có gắn 01 viên đá màu trắng, trọng lượng vàng 0,52 chỉ, trị giá: 0,52 chỉ x 2.250.000 đồng/chỉ = 1.170.000 đồng. Riêng viên đá Hội đồng không xác định giá trị, vì không rõ chủng loại và đặc điểm của đá.

- 01 sợi dây chuyền làm bằng kim loại vàng 14k, chất lượng vàng 61%, trọng lượng 1,49 chỉ, trị giá: 1,49 chỉ x 2.250.000 đồng/ chỉ = 3.352.500 đồng.

Tổng giá trị tài sản là 27.022.500 đồng.

Tại bản cáo trạng số 245/CT-VKS TPBMT ngày 03 tháng 8 năm 2020, Viện Kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột đã quyết định truy tố ra trước Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Quang V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bô luât hinh sư năm 2015.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị:

Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h,s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt Nguyễn Quang V từ:02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 23/04/2020.

c biện pháp tư pháp:Căn cứ Điều 46 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm c Khoản 2 và Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra xác định: Số tiền 3.740.000 đồng; 03 chiếc nhẫn hình tròn làm bằng vàng, loại vàng 9999, chất lượng vàng 999,9%, trọng lượng 05 chỉ; 01 chiếc nhẫn hình tròn bằng kim loại vàng 14k, chất lượng vàng 61%, có gắn 01 viên đá màu trắng, trọng lượng vàng 0,52 chỉ và 01 sợi dây chuyền làm bằng kim loại vàng 14k, chất lượng vàng 61%, trọng lượng 1,49 chỉ, là các tài sản của chị Đỗ Thị Lan H. Ngày 21/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột Quyết định xử lý vật chứng trao trả tiền và các tài sản trên cho chị H là chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng. Sau khi nhận lại tài sản, chị H không yêu cầu bồi thường gì thêm là phù hợp.

Trong vụ án này, đối với số tiền 3.056.000 đồng do Nguyễn Quang V trộm cắp trong cốp của một chiếc xe mô tô tại khu vực bãi giữ xe mô tô số 1 Bệnh viện đa khoa Vùng Tây Nguyên thuộc phương Tư An , thành phố Buôn Ma Thuôt , tỉnh Đắk Lắk, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột chưa xác định được đặc điểm, biển số của chiếc xe mô tô và chủ sở hữu của số tiền trên, nên tách ra khỏi nội dung vụ án tiếp tục xác minh xử lý sau, là phù hợp.

-Về xử lý vật chứng: Đối với 02 sợi dây thép màu trắng, dài 10cm, Nguyễn Quang V sử dụng làm công cụ phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

Đối với 01 chứng minh nhân dân số 225212472 của Nguyễn Quang V (bản gốc), không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác xét xử.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo Nguyễn Quang V không tranh luận gì thêm thừa nhận hành vi phạm tội của mình đã gây ra đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng một mức án nhẹ nhất vì bị cáo đã ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột; Kiểm sát viên trong qúa trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, diễn biến hành vi bị cáo đã thực hiện, phù hợp với toàn bộ vật chứng đã thu được …Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Do ý thức coi thường pháp luật, muốn có tiền tiêu xài cá nhân, nên vào khoảng 13 giờ ngày 23/4/2020, tại khu vực bãi giữ xe mô tô số 1 của Bệnh viện đa khoa Vùng Tây Nguyên thuộc phương Tư An, thành phố Buôn Ma Thuôt, tỉnh Đắk Lắk, Nguyễn Quang V đã lén lút trộm cắp: 03 chiếc nhẫn hình tròn làm bằng vàng, loại vàng 9999, chất lượng vàng 999,9%, trọng lượng 05 chỉ; 01 chiếc nhẫn hình tròn bằng kim loại vàng 14k, chất lượng vàng 61%, có gắn 01 viên đá màu trắng, trọng lượng vàng 0,52 chỉ và 01 sợi dây chuyền làm bằng kim loại vàng 14k, chất lượng vàng 61%, trọng lượng 1,49 chỉ, có tổng giá trị là 27.022.500 đồng và số tiền 3.740.000 đồng của chị Đỗ Thị Lan H thì bị phát hiện bắt quả tang. Xác định tổng trị giá tài sản bị cáo trộm cắp là 30.762.000 đồng. Bị cáo đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”

Hành vi phạm tội của Nguyễn Quang V là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại, là một trong những quyền về tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ. Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình; thế nhưng chỉ vì ham lợi bất chính không chịu lao động, không có thu nhập nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống của bản thân, mà bị cáo đã không tôn trọng pháp luật, coi thường quyền sở hữu tài sản của người khác, cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa p H nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do bị cáo gây ra. Do đó cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội; đồng thời đủ sức răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Quang V, đã thành khẩn khai báo, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; tài sản bị cáo trộm cắp đã được trả lại cho người bị hại nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h,s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. Do đó, cần xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[3].Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm c Khoản 2 và Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Buôn Ma Thuột đã Quyết định xử lý vật chứng trao trả số tiền 3.740.000 đồng; 03 chiếc nhẫn hình tròn làm bằng vàng, loại vàng 9999, chất lượng vàng 999,9%, trọng lượng 05 chỉ; 01 chiếc nhẫn hình tròn bằng kim loại vàng 14k, chất lượng vàng 61%, có gắn 01 viên đá màu trắng, trọng lượng vàng 0,52 chỉ và 01 sợi dây chuyền làm bằng kim loại vàng 14k, chất lượng vàng 61%, trọng lượng 1,49 chỉ, cho chị Đỗ Thị Lan H là chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng. Sau khi nhận lại tài sản, chị H không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Đối với số tiền 3.056.000 đồng do Nguyễn Quang V trộm cắp trong cốp của một chiếc xe mô tô tại khu vực bãi giữ xe mô tô số 1 Bệnh viện đa khoa Vùng Tây Nguyên thuộc phương Tư An, thành phố Buôn Ma Thuôt, tỉnh Đắk Lắk, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột chưa xác định được đặc điểm, biển số của chiếc xe mô tô và chủ sở hữu của số tiền trên, nên tách ra khỏi nội dung vụ án tiếp tục xác minh xử lý sau, là phù hợp.

-Về xử lý vật chứng: Đối với 02 sợi dây thép màu trắng, dài 10cm, Nguyễn Quang V sử dụng làm công cụ phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

Đối với 01 chứng minh nhân dân số 225212472 của Nguyễn Quang V (bản gốc), không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác xét xử.

[4]. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, Điều 22 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h,s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quang V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt:Nguyễn Quang V: 01(Một)năm 09(Chín) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 23/4/2020.

c biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm c Khoản 2 và Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:.

-Về xử lý vật chứng: Đối với 02 sợi dây thép màu trắng, dài 10cm, Nguyễn Quang V sử dụng làm công cụ phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

Đối với 01 chứng minh nhân dân số 225212472 của Nguyễn Quang V (bản gốc), không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác xét xử.

(Đc điểm như biên bản giao nhận tài sản, tang vật ngày 03/08/2020 giữa Công an Tp. Buôn Ma Thuột với Chi cục thi hành án dân sự Tp. Buôn Ma Thuột).

-Về án phí: Bị cáo Nguyễn Quang V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

-Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 245/2020/HS-ST ngày 27/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:245/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về