Bản án 245/2018/HSST ngày 23/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 245/2018/HSST NGÀY 23/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 247/2018/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 249/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Lò Xuân P, sinh ngày 06/01/2000 tại huyện M, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản S, xã M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn Đ (tên gọi khác: Lò Duy Đ) và bà Vì Thị H (Tên gọi khác: Lò Thị Hồng H); bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 15/6/2016 bị TAND huyện Mộc Châu xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội Trộm cắp tài sản; bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 18/6/2018 đến nay. Có mặt.

2. Lò Văn T, sinh năm 1988 tại huyện M, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản S, xã M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn P và bà Lò Thị S; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 18/6/2018 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lò Văn T và Lò Xuân P có mối quan hệ họ hàng. Ngày 18/6/2018 P đến kho hàng nhà Xuân Đ nơi T đang làm việc để xin việc làm nhưng không gặp được ông bà Xuân Đ. Khoảng 15 giờ cùng ngày P rủ T đi vào bản Co S, xã Đ, huyện M để mua ma túy sử dụng, T đồng ý. Sau đó P và T thuê xe ôm của người đàn ông không biết tên vào bản Co Sung để mua ma túy, khi đi đến bản Co Sung thì P và T xuống xe đi bộ vào một lán nương bỏ hoang thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết P hỏi “có hồng phiến không bán cho 05 viên”, người đàn ông trả lời “hai trăm năm mươi nghìn đồng”, ngay lúc đó T bảo người đàn ông đó bán cho thêm 01 viên. T đưa cho P 500.000đ, P nhận tiền và trả cho người đàn ông đó. Người đàn ông nhận tiền và đưa cho P 03 gói nilon màu xanh, bên trong mỗi gói đựng 02 viên hồng phiến. Do không có tiền trả lại nên người đàn ông dân tộc Mông đi đổi tiền, trong lúc ngồi đợi người đàn ông dân tộc Mông quay lại trả tiền thì tổ công tác kiểm tra phát hiện và bắt quả tang. Thu giữ của P và T 03 gói nilon màu xanh.

Ngày 18/6/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng ma túy thu giữ của P và T như sau:

Cân 02 viên trong gói thứ nhất có khối lượng 0,20gam, lấy 0,10gam gửi giám định, mẫu ký hiệu T1.

Cân 02 viên trong gói thứ hai có khối lượng 0,19gam, lấy 0,10gam gửi giám định, mẫu ký hiệu T2.

Cân 02 viên trong gói thứ ba có khối lượng 0,19gam, lấy 0,10gam gửi giám định, mẫu ký hiệu T3.

Tại kết luận giám định số 759 ngày 22/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận “ Mẫu gửi giám định ký hiệu T1, T2, T3 là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,30gam.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,58gam, loại Methamphetamine”.

Bản cáo trạng số 202/CT-VKSMC ngày 03/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố Lò Xuân P, Lò Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Lò Xuân P, Lò Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt bị cáo như sau:

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Xuân P từ 18 tháng đến 21 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 18 tháng đến 21 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong trong đựng 0,28 gam Methamphetamine và vỏ gói niêm phong ban đầu.

4. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo Lò Xuân P, Lò Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo và trách nhiệm hình sự:

Tại phiên toà, các bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, các bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Các bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu. Các bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc các bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của các bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 16 giờ 30 Pt ngày 18/6/2018; biên bản thu giữ niêm phong vật chứng; kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Ngày 18/6/2018 Lò Xuân P và Lò Văn T đã có hành vi tàng trữ 0,58gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý độc quyền chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.

Xét về nhân thân của các bị cáo thấy rằng các bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma tuý, bị cáo P đã từng có 01 tiền án mặc dù được xác định là không bị coi là có án tích. Tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện mà lại tiếp tục phạm tội . Do đó, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra và cách ly các bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về phân hóa vai trò phạm tội của các bị cáo trong vụ án: Bị cáo Lò Xuân P là người khởi xướng, rủ bị cáo T đi mua ma túy nên giữ vai trò chính trong vụ án.

Bị cáo Lò Văn T là người tiếp nhận ý trí cùng đi với bị cáo P người trực tiếp mua ma túy nên giữ vai trò đồng phạm trong vụ án.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo đã T khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân các bị cáo không có tài sản gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[4] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,28 gam Methamphetamine và vỏ gói niêm phong ban đầu là vật nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng. Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu huỷ.

[5] Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho Lò Xuân P và Lò Văn T ngày 18/6/2018 (như các bị cáo khai). Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này, do đó không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[6] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Xét thấy thời hạn tạm giam của các bị cáo còn dưới 45 ngày, do đó Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam đối với các bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Lò Xuân P, Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Xuân P 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 18/6/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 18/6/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự ; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,28 gam Methamphetamine và vỏ gói niêm phong ban đầu.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm2015; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Các bị cáo Lò Xuân P, Lò Văn T phải chịu mỗi bị cáo 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 245/2018/HSST ngày 23/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:245/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về