Bản án 244/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 244/2019/HS-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 236/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 239/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Đinh Hoàng V (Tên gọi khác: Ti), sinh năm 1987. Tại: Lâm Đồng. Nơi ĐKHKTT: Thôn NĐ, thị trấn TM, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Trình độ học vấn: 10/12. Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Phạm Văn D (chết) và bà Đinh Thị Kim L; Vợ: Lê Thị Mỹ T, có 01 con (lớn sinh năm 2008). Tiền án: Ngày 30/11/2012, Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án hình sự sơ thẩm số 288/2012/HSST; Ngày 18/8/2017, Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 40/2017/HSST. Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 13/7/2019 và tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Bị hại: Bà Trần Thị Cẩm T1 sinh năm 1994. HKTT: Ấp MT, xã LM, huyện G, tỉnh Bến Tre; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Đinh Hoàng V không có việc làm ổn định và do cần tiền để tiêu xài nên V nảy sinh ý định đi trộm cắp xe mô tô. Thực hiện ý định trên, V đi mua thanh sắt hình lục giác về rồi tự chế ra được 03 (ba) cây đoản sắt (trong đó có 01 cây hình L dài 17 cm, 02 cây còn lại có đầu nhọn dài 04 cm) dùng để phá khóa xe mô tô. Sau đó, đến khoảng 10 giờ ngày 13/7/2019, V cất 03 (ba) cây đoản sắt trên vào túi quần bên phải rồi thuê xe ôm đi đến cổng khu du lịch ĐN - Khu phố X, phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương. Khi đến noi, V quan sát thấy gần cổng khu du lịch ĐN có quán cà phê R (phường H) có 03 chiếc xe mô tô dựng trước cửa quán và xung quanh không có người trông giữ nên V đi lại gần chiếc xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 71B3 - 399.XX của chị Trần Thị Cẩm T1, sinh năm 1994 và sử dụng cây đoản sắt để phá khóa xe mô tô hiệu Honda Vision. Khi V vừa phá xong khóa của xe mô tô trên thì bị chị Trần Thị Cẩm T1 phát hiện, truy hô và cùng một số người dân bắt giữ V giao Công an phường H lập biên bản tiếp nhận người phạm tội quả tang. Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 71B3 - 399.XX và 03 (ba) cây đoản sắt (trong đó có 01 cây hình L dài 17 cm, 02 cây còn lại có đầu nhọn dài 04 cm). Cùng ngày 13/7/2019, Công an phường H đã chuyển giao hồ sơ vụ việc cùng vật chứng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một để giải quyết theo thẩm quyền.

Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 223//KLTS-TTHS ngày 18/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Dầu Một kết luận: 01 (Một) chiếc xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 71B3 - 399.XX trị giá 25.000.000 (hai mươi lăm triệu) đồng.

Ngày 18/7/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một đã giao trả 01 (Một) chiếc xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 71B3 - 399.XX cho bị hại là chị Trần Thị Cẩm T1. Hiện chị T1 không có yêu cầu gì khác đối với Phạm Đinh Hoàng V. Đối với 03 (ba) cây đoản sắt (trong đó có 01 cây hình L dài 17cm, 02 cây còn lại có đầu nhọn dài 4cm) thu giữ của Phạm Đinh Hoàng V, quá trình điều tra xác định đây là công cụ V sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một.

Cáo trạng số 250/CT-VKS-HS ngày 22/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Phạm Đinh Hoàng V về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 15; Điều 38; Điều 57 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Không đề nghị giải quyết.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 03 (ba) cây đoản sắt (trong đó có 01 cây hình chữ L dài 17cm, 02 cây còn lại có đầu nhọn dài 04 cm).

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai của bị hại cùng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 13/7/2019, Phạm Đinh Hoàng V có hành vi lén dùng đoản sắt phá ổ khóa xe mô tô hiệu Honda Vision biển số 71B3 - 399.XX nhằm chiếm đoạt nhưng chưa lấy được thì bị bắt quả tang; trị giá tài sản là 25.000.000đ (hai mươi lăm triệu đồng). Do đó, hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp “Phạm tội chưa đạt”. Ngoài ra, bản thân bị cáo đã từng bị kết án về hành vi chiếm đoạt tài sản với tình tiết tăng nặng tái phạm, nay lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý là trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. về nhận thức, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam mà bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo đồng thời nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm chung, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại về tài sản. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Ngoài ra, do bị cáo phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 57 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 khi quyết định hình phạt. Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[7] Về biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy 03 (ba) cây đoản sắt (trong đó có 01 cây hình chữ L dài 17cm, 02 cây còn lại có đầu nhọn dài 04 cm) là công cụ thực hiện hành vi phạm tội.

[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Phạm Đinh Hoàng V phạm tội “Trộm cắp tài sản (chưa đạt)”.

2/ Về hình phạt: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 57 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phạm Đinh Hoàng V 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/7/2019.

3/ Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét.

4/ Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Tuyên tịch thu tiêu hủy 03 (ba) cây đoản sắt (trong đó có 01 cây hình chữ L dài 17cm, 02 cây còn lại có đầu nhọn dài 04 cm).

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 016.20 ngày 23/10/2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự và và Công an thành phố Thủ Dầu Một).

5/ Về án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 244/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:244/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về