Bản án 244/2019/HSST ngày 18/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 244/2019/HSST NGÀY 18/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 18/11/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 243/2019/HSST ngày 24/10/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 247/2019/QĐXXST-HS ngày 07/11/2019 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn H. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam Sinh năm 1980. Tại tỉnh Điện Biên.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản Na S, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt nam. Tôn giáo: Không.

Nghề nghiệp: Làm mộng. Trình độ văn hóa: 9/12.

Con ông: Lò Văn K sinh năm 1961. Con bà: Vì Thị S, sinh năm 1962. Gia đình bị cáo có 4 anh chị em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình. Bị cáo có vợ: Quàng Thị M, sinh năm 1984, bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2006. Tiền án; Tiền sự: Không: Nhân thân: Chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị Tòa án xét xử. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 02/10/2019, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hoàng Tiến Ng - Luật sư của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ ngày 02/10/2019, Lò Văn H đi xe ôm của một người không rõ tên, địa chỉ từ bến xe khách thành phố Điện B, tỉnh Điện Biên đến khu vực đội 18, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên, mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Khi đến đội 18, xã Th, huyện Đ, H gặp và mua được 01 gói heroine đươc gói bên ngoài bàng nilon màu trắng với giá 200.000đ của một người đàn ông khoảng 35 tuổi không biết tên và địa chỉ. Sau khi mua được heroine Hươi cất vào túi quần bên phải đang mặc. Hồi 08 giờ 15 phút cùng ngày, tại đội 18, xã Th, huyện Đ khi H định lấy gói heroine vừa mua được ra sử dụng thì bị Tổ công tác Công an huyện Đ phát hiện bắt quả tang và thu giữ tại túi quần bên phải đang mặc của H 01 gói Heroine.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 02/10/2019 đã xác định: Số cục bột màu trắng thu giữ của bị cáo Lò Văn H có khối lượng là 0,18 gam, trích 0,07 gam gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 956/GĐ-PC09 ngày 09/10/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn H là chất ma túy loại heroine.

Tại bản cáo trạng số 236/CT-VKS-HĐB ngày 23/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Lò Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015: Xử phạt bị cáo Lò Văn H từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 về xử lý vật chứng.

Áp dụng Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án, đề nghị HĐXX xem xét miễn án phí đối với bị cáo.

Tại bản luận cứ bào chữa: Người bào chữa cho bị cáo nhất trí quan điểm truy tố của Viện kiểm sát, quyết định xét xử của Tòa án đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không oan sai. Bị cáo thành khẩn khai báo, nên đề nghị HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo Điểm s Khoản 1 Điều 51/ BLHS. Bị cáo thuộc diện hộ nghèo đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí HSST cho bị cáo;

Bị cáo hoàn toàn nhất trí bản luận cứ bào chữa của Người bào chữa không có ý kiến bổ sung vào bản luận cứ.

Bị cáo cũng hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND huyện Điện Biên không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt không có ý kiến gì khác.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lò Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Mọi lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo.

[2]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Lò Văn H là đối tượng nghiện chất ma túy bị cáo đã đi xe ôm từ thành phố Đ xuống đội 18 xã Th, huyện Đ mục đích đi tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tại đây bị cáo đã gặp một người đàn ông khoảng 35 tuổi không biết tên và địa chỉ và mua được của người đó 01 gói heroine, với giá 200.000đ. Sau khi mua được heroine H cất gói heroine ở túi quần bên phải đang mặc và bỏ ra chuẩn bị sử dụng thì bị bắt quả tang khi đang tàng trữ trên người 0,18 gam heroine.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành và được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Vật chứng thu giữ của bị cáo đã được cân xác định khối lượng là 0,18 gam, kết luận giám định là heroine. Với hành vi tàng trữ 0,18 gam heroine mục đích để sử dụng của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015, có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù.

Cáo trạng của VKSND huyện Đ đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình đã gây ra.

[3]. Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo thì hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Song vì nhu cầu của bản thân bị cáo đã bất chấp và cố tình vi phạm. Nên cần phải xử lý bị cáo nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

[4]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho thấy:

Sinh ra và lớn lên tại huyện Đ, bản thân học hết lớp 9/12 thì bỏ học năm 2007 nghiện ma túy. Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015. HĐXX xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy nên cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để tiếp tục giáo dục, cải tạo và có thời gian cai nghiện ma túy.

[5]. Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 249/BLHS. Xét kinh tế bị cáo khó khăn, bản thân lại nghiện chất ma túy. Gia đình thuộc hộ nghèo nên không có điều kiện để thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Còn người đàn ông khoảng 35 tuổi bị cáo đã gặp tại đội 18, xã Th, huyện Đ theo bị cáo khai đã bán heroine cho bị cáo, do không biết tên và địa chỉ nên cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được. HĐXX không xem xét.

[6]. Về hành vi và các Quyết định của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều tra viên, kiểm sát viên. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp được chấp nhận.

[7]. Vật chứng của vụ án cần áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS 2015 về xử lý vật chứng. Tịch thu tiêu hủy 0,18 gam heroine đã trích 0,07 gam gửi giám định không hoàn lại.

[8]. Về án phí: Bị cáo có hộ khẩu thường trú tại xã đặc biệt khó khăn, gia đình thuộc hộ nghèo thuộc diện miễn án phí. Áp dụng khoản 2 Đều 136/BLTTHS; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 bị cáo được miễn toàn bộ án phí HSST.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Lò Văn H 13 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (02/10/2019).

3. Vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 0,18 gam heroine đã trích 0,07 gam gửi giám định không hoàn lại. (Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Điện Biên vào ngày 29/10/2019).

4. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo Lò Văn H được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 18/11/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 244/2019/HSST ngày 18/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:244/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về