Bản án 244/2017/HSST ngày 25/10/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 244/2017/HSST NGÀY 25/10/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25/10/2017, Tòa án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 242/2017/TLST-HS ngày 06/10/2017 đối với:

Họ và tên: Hồ Minh Q; Tên gọi khác: T bà L; Sinh năm: 1990; Tại: Tỉnh Đắk Lắk;

Nơi đăng ký HKTT: đường Y, phường TL, thành phố B, Đắk Lắk

Chỗ ở hiện nay: Không nơi ở nhất định

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;

Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không;

Trình độ học vấn: 9/12; Tiền án: 01; Tiền sự: Không;

Con ông: Hồ Minh V (Đã chết); Con bà: Lê Thị Kim H - Sinh năm: 1966. Hiện đều trú tại: Đường N, phường TA, thành phố B, Đắk Lắk.

Bị cáo chung sống như vợ chồng với Lê Thị Thanh T – Sinh năm 1996. Trú tại: Thôn A, xã D, huyện C, tỉnh Đắk Lắk nhưng hiện nay chị T đã bỏ đi. Bị cáo có 01 con nuôi, hiện trú tại đường N, phường TA, thành phố B, Đắk Lắk.

Nhân thân: Sinh ra và lớn lên tại tỉnh Đắk Lắk, được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 9/12 thì nghỉ ở nhà phụ giúp gia đình.

Ngày 06/01/2015, bị TAND Tp. Buôn Ma Thuột xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 02/2015/HSST. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa được xóa án tích.

Ngày 20/3/2017 có hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 07/7/2017, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột khởi tố và tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Tp. Buôn Ma Thuột cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

- Lê Thị Hồng T (N) - Sinh năm: 1997 (Vắng mặt)

Nơi ĐKHKTT: Thôn L, xã N1, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông

Chỗ ở hiện nay: Đường H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk

* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Lê Thị Kim H (L) - Sinh năm: 1966 (Có mặt)

Trú tại: Đường N, phường TA, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

* Người làm chứng:

- Anh Nguyễn M - Sinh năm: 1985 (Vắng mặt)

Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố A, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk

Chỗ ở hiện nay: Liên gia S, tổ dân phố X, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk

- Anh Vũ Ngọc M - Sinh năm: 1975 (Vắng mặt)

Trú tại: Tổ dân phố X, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk

- Anh Hồ Minh N - Sinh năm: 1986 (Có mặt)

Trú tại: Đường N, phường TA, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Hồ Minh Q (T bà L) bị Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồ Minh Q là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 20/3/2014, Hồ Minh Q điều khiển xe mô tô biển số 48H6-5908 mang theo 01 cây tuýp bằng kim loại rỗng ruột dài 36cm, đường kính 03cm một đầu được gắn cây đục kim loại dài 22cm, đường kính 02cm, một đầu dẹp để ở trong cốp xe và đi trên các con đường trên địa bàn thành phố B với mục đích tìm tài sản của người dân để sơ hở thì trộm cắp. Khi đi đến trước dãy trọ của anh Vũ Ngọc M tại địa chỉ đường G tổ dân phố X, phường T, thành phố B, quan sát thấy vắng người nên Q điều khiển xe đi vào bên trong dãy trọ rồi dừng xe tại hành lang của dãy trọ. Sau đó Q mở cốp xe lấy cây tuýp sắt, đi đến phòng trọ số 27, thấy phòng này khóa bên ngoài, biết không có người bên trong nên Q dùng tuýp sắt phá ổ khóa rồi đi vào bên trong thấy có 01 máy tính xách tay hiệu Asus K46CA 33214G50, Core i3, Ram 4GB, màu đen đang cắm sạc pin bằng cục sạc pin Asus Model PA-1650 màu đen để ở trên giường ngủ của chị Lê Thị Hồng T nên Q rút dây sạc pin ra rồi ôm cả máy tính xách tay và dây sạc pin vào người rồi đi đến chỗ xe môtô, mở cốp xe bỏ máy tính, cục sạc pin và cây tuýp vào cốp xe, nổ máy chuẩn bị tẩu thoát thì bị quần chúng nhân dân phát hiện, tri hô. Q bỏ lại xe cùng tang vật của vụ án và chạy thoát.

Ngày 25/3/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Tp. Buôn Ma Thuột đã tiến hành tạm giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia E66 màu đen; 01 xe mô tô biển số 48H6-5908; 1 máy tính xách tay hiệu Asus K46CA 33214G50, Core i3, Ram 4GB, màu đen; cục sạc pin Asus Model PA-1650 màu đen; 01 cây tuýp bằng kim loại rỗng ruột dài 36cm, đường kính 03cm một đầu được gắn cây đục kim loại dài 22cm, đường kính 02cm , một đầu dẹp là tang vật của vụ án.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 97 ngày 11/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận: 1 máy tính xách tay hiệu Asus K46CA 33214G50, Core i3, Ram 4GB, màu đen; cục sạc pin Asus Model PA-1650 màu đen có tổng trị giá là 3.700.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 255/KSĐT-HS ngày 05/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo Hồ Minh Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Hồ Minh Q khai nhận hành vi phạm tội đúng như đã khai nhận tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột và phù hợp với nội dung truy tố tại bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Hồ Minh Q và giữ nguyên quyết định truy tố tại bản Cáo trạng số 255/KSĐT-HS ngày 05/10/2017. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo với mức án từ 12 đến 15 tháng tù giam.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 42 BLHS; Điều 76 BLTTHS

Đề nghị chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột, trao trả 01 máy tính xách tay hiệu Asus K46CA 33214G50, Core i3, Ram 4GB màu đen và 01 cục sạc pin nhãn hiệu Asus model PA-1650 màu đen cho chủ sở hữu là chị Lê Thị Hồng T nhận quản lý, sử dụng.

Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 tuýp kim loại rỗng ruột (dài 36cm, đường kính 03cm, một đầu được gắn cây đục kim loại dài 22cm, đường kính 02cm, một đầu dẹp) là công cụ Hồ Minh Q sử dụng làm phương tiện phạm tội.

Đề nghị trả lại cho Hồ Minh Q 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia E66 màu đen là tài sản của bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội.

Đề nghị tách chiếc xe môtô biển số 48H6-5908 nhãn hiệu Honda màu nâu đen, số máy JF24EO358887, số khung 2406AY041826 mà Hồ Minh Q sử dụng làm phương tiện phạm tội ra khỏi vụ án để xác minh làm rõ chủ sở hữu và xử lý sau.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Lời khai của bị cáo Hồ Minh Q tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp lý để kết luận, bị cáo Hồ Minh Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Điều 138 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Hồ Minh Q là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ khả năng nhận thức để biết, tài sản của người khác là đối tượng được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật đều bị xử phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên do ý thức coi thường pháp luật; lười lao động, thiếu sự tu dưỡng, rèn luyện bản thân nên bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác bán lấy tiền tiêu xài. Bị cáo là người đã có tiền án, bị cáo chưa được xóa án tích mà bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Với tính chất và mức độ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc và tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thì mới đảm bảo tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

Tuy nhiên, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải; tài sản đã được thu giữ trả lại cho người bị hại. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

* Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 41 BLHS; Điều 76 Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 41 BLHS, Điều 589 Bộ Luật Dân Sự 2015. Chấp nhận việc người bị hại chị Lê Thị Hồng T không yêu cầu bị cáo bồi thường.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 42 BLHS; Điều 76 BLTTHS

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột, trao trả 01 máy tính xách tay hiệu Asus K46CA 33214G50, Core i3, Ram 4GB màu đen và 01 cục sạc pin nhãn hiệu Asus model PA-1650 màu đen cho chủ sở hữu là chị Lê Thị Hồng T nhận quản lý, sử dụng.

Đối với 01 tuýp kim loại rỗng ruột (dài 36cm, đường kính 03cm, một đầu được gắn cây đục kim loại dài 22cm, đường kính 02cm, một đầu dẹp) là công cụ Hồ Minh Q sử dụng làm phương tiện phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia E66 màu đen là tài sản của bị cáo Hồ Minh Q, không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với chiếc xe môtô biển số 48H6-5908 nhãn hiệu Honda màu nâu đen, số máy JF24EO358887, số khung 2406AY041826 mà Hồ Minh Q sử dụng làm phương tiện phạm tội, hiện chưa xác minh được chủ sở hữu nên tách ra khỏi vụ án để xác minh làm rõ và xử lý sau.

Trong vụ án này có bà Lê Thị Kim H (L) là người đã cho Hồ Minh Q mượn chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda biển số 48H6-5908 làm phương tiện đi lại, sau đó Q đã sử dụng chiếc xe này vào việc trộm cắp. Việc Q trộm cắp bà H không biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra không đề cập xử lý đối với bà H là phù hợp.

Đối với đối tượng là nam giới, người đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Hồ Minh Q sử dụng , hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra tách ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra xác minh và xử lý sau là phù hợp.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Hồ Minh Q, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột đã xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/2013/NĐCP ngày 12/11/20136 của Chính phủ là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: Bị cáo Hồ Minh Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS.

Xử phạt bị cáo Hồ Minh Q 15 (mười lăm) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 10/7/2017.

* Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 41 BLHS; Điều 76 BLTTHS

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 41 BLHS, Điều 589 BLDS 2015. Chấp nhận việc người bị hại chị Lê Thị Hồng T không yêu cầu bị cáo bồi thường.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 42 BLHS; Điều 76 BLTTHS

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột, trao trả 01 máy tính xách tay hiệu Asus K46CA 33214G50, Core i3, Ram 4GB màu đen và 01 cục sạc pin nhãn hiệu Asus model PA-1650 màu đen cho chủ sở hữu là chị Lê Thị Hồng T nhận quản lý, sử dụng.

Tịch thu, tiêu hủy 01 tuýp kim loại rỗng ruột (dài 36cm, đường kính 03cm, một đầu được gắn cây đục kim loại dài 22cm, đường kính 02cm, một đầu dẹp) là công cụ Hồ Minh Q sử dụng làm phương tiện phạm tội.

Trả lại cho Hồ Minh Q 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia E66 màu đen là tài sản của bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội.

Tách chiếc xe môtô biển số 48H6-5908 nhãn hiệu Honda màu nâu đen, số máy JF24EO358887, số khung 2406AY041826 mà Hồ Minh Q sử dụng làm phương tiện phạm tội ra khỏi vụ án để xác minh làm rõ chủ sở hữu và xử lý sau.

* Về án phí:Áp dụng điểm a Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Hồ Minh Q phải chịu 200.000 đồng án phí HSST

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 244/2017/HSST ngày 25/10/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:244/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về