Bản án 243/2021/HS-PT ngày 22/04/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁNNHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 243/2021/HS-PT NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 22 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 648/2020/TLPT- HS ngày 02 tháng 11 năm 2020 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 40/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh. Do có kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Ngân T.

Bị hại có liên quan đến kháng cáo:Ngân hàng thương mại cổ phần A; địa chỉ: Số … Ngô Quyền, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đình L - Chủ tịch hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền:Anh Nguyễn Tuấn M, sinh năm1990 - Chuyên viên (theo văn bản ủy quyền ngày 13/11/2019); có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo: Bà Lê Thị Ngân T, sinh năm 1993; địa chỉ: Ấp Long Hải, xã Trường Tây, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lê Hải Tr trước đây làm nhân viên cho nhiều ngân hàng khác nhau, đến tháng 5 năm 2018 ký hợp đồng làm nhân viên tín dụng của Ngân hàng A - Chi nhánh Tây Ninh.

Trong quá trình được giao nhiệm vụ hướng dẫn khách hàng làm hồ sơ vay tiền, Tr đã thực hiện hành vi làm giả hồ sơ, thay đổi thông tin người thụ hưởng trong hồ sơ vay tiền của các khách hàng Huỳnh Thị Ng và Trần Thị Yến Th để chiếm đoạt số tiền 1.300.000.000 đồng của Ngân hàng A. Cụ thể:

Tháng 01/2019, bà Huỳnh Thị Ng đến Ngân hàng A - Chi nhánh Tây Ninh để làm hồ sơ vay tiền kinh doanh, Tr hướng dẫn làm thủ tục, bà Ng được Ngân hàng cho vay kinh doanh với hạn mức 01 tỷ đồng.Bà Ng làm hồ sơ vay và được giải ngân số tiền 500.000.000 đồng. Do biết bà Ng còn hạn mức vay 500.000.000 đồng, nên Tr đã giả chữ ký của bà Ng và ông Phạm Chí Tr2 (chồng bà Ng) làm hồ sơ vay số tiền 500.000.000 đồng để chiếm đoạt tiền của ngân hàng. Đến ngày 06/8/2019, sau khi hồ sơ vay được duyệt, Tr đã chỉnh sửa thông tin người thụ hưởng trên tờ “Khế ước nhận nợ”, tờ “Ủy nhiệm chi” từ tài khoản bà Ng sang tài khoản của Ngô Thùy D (vợ của Tr) và phô tô tờ “Khế ước nhận nợ” đã chỉnh sửa và gửi mail chuyển đến bộ phận dịch vụ khách hàng “Khế ước nhận nợ” đã chỉnh sửa để bộ phận dịch vụ khách hàng tin tưởng tài liệu này là bản gốc. Tại bộ phận dịch vụ khách hàng, Lê Thị Ngân T (giao dịch viên) tiếp nhận kiểm tra hồ sơ, sau đó chuyển cho Phan Thị Đỗ Q (kiểm soát viên) để kiểm tra. Theo quy trình giải ngân thì phải kiểm tra, đối chiếu với tờ “Khế ước nhận nợ” bản gốc nhưng bộ phận dịch vụ khách hàng đã tin tưởng Tr không kiểm tra, đối chiếu và ký duyệt giải ngân số tiền 500.000.000 đồng chuyển vào tài khoản Ngô Thùy D. Tr sử dụng 300.000.000 đồng chuyển trả nợ trước đó cho Lê Thị Ngân T, số tiền còn lại Tr sử dụng đánh bạc bằng hình thức cá độ bóng đá qua mạng. Sau đó, Tr mượn lại bà T 400.000.000 đồng.

Tháng 9/2019, bà Trần Thị Yến Th đến Ngân hàng A Chi nhánh Tây Ninh làm hồ sơ vay số tiền 800.000.000 đồng mua xe ô tô tải tại Công ty Cổ phần K Việt Nam - Chi nhánh Tây Ninh, được Tr hướng dẫn làm hồ sơ, thủ tục vay tiền. Sau khi hồ sơ vay của bà Thu được Ngân hàng hoàn tất thủ tục giải ngân, Tr đưa tờ “Ủy nhiệm chi” cho bà Thu ký tên trước còn nội dung người thụ hưởng Tr tự điền vào sau. Sau đó, Tr chỉnh sửa thông tin người thụ hưởng trên tờ “Khế ước nhận nợ” từ tài khoản của Công ty Cổ phần K Việt Nam thành tài khoản Ngô Thùy D và phô tô tờ “Khế ước nhận nợ” đã chỉnh sửa, gửi mail “Khế ước nhận nợ” đã chỉnh sửa chuyển đến Lê Thị Ngân T tiếp nhận kiểm tra hồ sơ, sau đó Lê Thị Ngân T chuyển hồ sơ cho Ngô Thị Kim Thoa (trưởng bộ phận dịch vụ khách hàng) kiểm tra, đối chiếu lại. Bộ phận dịch vụ khách hàng đã tin tưởng Tr không kiểm tra, đối chiếu và ký duyệt giải ngân số tiền 800.000.000 đồng vào tài khoản Ngô Thùy D. Tr sử dụng 400.000.000 đồng chuyển trả nợ cho Lê Thị Ngân T, số tiền còn lại Tr sử dụng cá độ bóng đá qua mạng và mua 10 chỉ vàng (đã thu hồi lại được).

Sau khi tiếp nhận phản ánh của Công ty Cổ phần K Việt Nam, Ngân hàng A - Chi nhánh Tây Ninh cho kiểm tra lại các hồ sơ vay vốn do Tr phụ trách, phát hiện hành vi lừa đảo của Tr nên làm đơn tố cáo. Quá trình điều tra, Tr đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Kết luận giám định số 1707 ngày 01/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận:

+ Chữ ký, chữ viết “Huỳnh Thị Ng” dưới mục “BÊN ĐỀ NGHỊ” trên “GIẤY ĐỀ NGHỊ GIẢI NGÂN” ngày 05/8/2019, dưới mục “BÊN VAY” trên “KHẾ ƯỚC NHẬN NỢ” ngày 06/8/2019, dưới mục “Chủ tài khoản” trên giấy “ỦY NHIỆM CHI” ngày 06/8/2019 không phải chữ ký, chữ viết của Huỳnh Thị Ng; chữ viết các mục này là chữ viết của Lê Hải Tr.

+ Chữ ký, chữ viết “Phạm Chí Trung” dưới mục “BÊN ĐỀ NGHỊ” trên “GIẤY ĐỀ NGHỊ GIẢI NGÂN” ngày 05/8/2019, dưới mục “BÊN VAY” trên “KHẾ ƯỚC NHẬN NỢ” ngày 06/8/2019 không phải chữ ký, chữ viết của Phạm Chí Trung.

Đối với hồ sơ vay của bà Trần Thị Yến Th, Ngân hàng A - Chi nhánh Tây Ninh đã giải ngân lại số tiền 800.000.000 đồng cho Công ty Cổ phần K Việt Nam.

Về trách nhiệm dân sự: Ngân hàng A yêu cầu bị cáo Lê Hải Tr bồi thường số tiền 900.000.000 đồng; yêu cầu bà T trả lại số tiền 400.000.000 đồng.

Về kê biên tài sản: Bị cáo Lê Hải Tr không có tài sản nên không tiến hành kê biên.

Vật chứng thu giữ: 01 thẻ rồng vàng 9999 có trọng lượng 37,5 gram (01 lượng) có mã số FS41214 do Công ty vàng bạc đá quý SJC sản xuất; qua kiểm tra thực tế là vàng thật, có trọng lượng 10 (mười) chỉ tương đương 37,5 (ba mươi bảy phẩy năm) gram, tuổi vàng 9999.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số:40/2020/HS-ST ngày22tháng9năm 2020, Tòa ánnhândân tỉnh Tây Ninh đã tuyên xử:

1. Tuyên bố bị cáo Lê Hải Tr phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Hải Tr15 (mười lăm) năm tù; thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 12/12/2019.

2. Về bồi thường và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46; Điều 47 và Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2.1. Buộc bị cáo Lê Hải Tr có nghĩa vụ trả lại cho Ngân hàng A số tiền 1.300.000.000 đồng; khấu trừ số tiền 400.000.000 đồng bị cáo Lê Hải Tr đã chuyển trả nợ cho bà Lê Thị Ngân T; bị cáo Lê Hải Tr còn phải trả cho Ngân hàng A số tiền 900.000.000 đồng (chín trăm triệu đồng).

2.2. Buộc bà Lê Thị Ngân T có nghĩa vụ trả lại cho Ngân hàng A số tiền 400.000.000 đồng (bốn trăm triệu đồng).

Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 05 tháng 10 năm 2020,bà Lê Thị Ngân T có đơn kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự , không đồng ý trả lại ngân hàng số tiền như án sơ thẩm tuyên trả.

Tại phiên tòaphúc thẩm,người đại diện chongười có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan -bà Lê Thị Ngân T trình bày:Bà T và bị cáo Tr làm cùng ngân hàng, bị cáo Tr hai lần vay tiền bà T. Cụ thể ngày 25/7/2019 bà T chuyển khoản cho bị cáo Tr vay 300.000.000 đồng, ngày 06/8/2019 bị cáo Tr chuyển khoản trả nợ cho bà T 300.000.000 đồng. Ngày 08/8/2019, bị cáo Tr hỏi mượn bà T 400.000.000 đồng, do tài khoản chỉ có 300.000.000 đồng trước đó bị cáo Tr chuyển trả nợ nên bà T phải nộp thêm số tiền 100.000.000 đồng để đủ 400.000.000 đồng, sau đó chuyển khoản cho bị cáo Tr vay 400.000.000 đồng.

Đến ngày 11/9/2019, bị cáo Tr đã chuyển khoản trả nợ xong cho bà T 400.000.000 đồng. Do bị cáo Tr nợ tiền nên phải trả nợ, bà T không biết số tiền bị cáo Tr trả nợ từ đâu bị cáo Tr có. Bản án sơ thẩm buộc bà T phải trả lại số tiền 400.000.000 đồng là không có căn cứ, gây thiệt hại cho bà, đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm theo hướng không buộc bà T phải trả cho Ngân hàng A số tiền trên. Ngoài ra, bị cáo cũng dùng số tiền lấy của Ngân hàng A trả cho Nguyễn Thị Thu H nhưng cấp sơ thẩm không đưa bà H vào tham gia tố tụng, cũng không buộc bà Hằng phải trả lại là áp dụng luật không thống nhất, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại vấn đề nêu trên.

Đại diện Ngân hàng A trình bày: Bản án sơ thẩm là có căn cứ, đề nghị bác kháng cáo của bà Ngân T, giữ nguyên án sơ thẩm. Đối với việc bị cáo có dùng tiền chiếm đoạt của Ngân hàng chuyển cho đối tượng khác, đây là việc chuyển tiền trong hành vi đánh bạc của bị cáo và cơ quan điều tra đang xử lý trong vụ án khác.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát:

Hội đồng xét xử, những người tham gia tố tụng đã chấp hành đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố Tụng hình sự.

Về nội dung kháng cáo của bà Lê Thị Ngân T: các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện nguồn tiền bị cáo Tr dùng để trả nợ cho bà T có được do phạm tội mà có, do đó bản án sơ thẩm buộc bà T phải hoàn trả lại cho Ngân A là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm, không chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị Ngân T. Việc đại diện bà T trình bày bị cáo Tr có dùng tiền chiếm đoạt của Ngân hàng chuyển cho người khác nhưng cấp sơ thẩm không buộc người này hoàn trả cho Ngân hàng. Do bị cáo dùng tiền chiếm đoạt của Ngân hàng để đánh bạc nên cấp sơ thẩm buộc bị cáo hoàn trả số tiền này là có căn cứ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Lê Thị Ngân T làm trong hạn luật định và hợp lệ nên được chấp nhận xem xét.

[2] Đối với nội dung kháng cáo:

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan – bà Lê Thị Ngân T kháng cáo với nội dung cho rằng bà có cho bị cáo Lê Hải Tr vay số tiền 400.000.000đ, việc bị cáo lừa đảo Ngân hàng thương mại cổ phần A bà không biết và số tiền bị cáo trả cho bà,bà không xác định từ đâu mà có, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

Ngày 25/7/2019 bị cáo Tr hỏi vay bà T số tiền 300.000.000 đồng, nên bà T chuyển vào tài khoản đứng tên bị cáo Tr số tiền 300.000.000 đồng (BL268, 332).

Do bị cáo Tr làm giả hồ sơ, thay đổi thông tin người thụ hưởng trong hồ sơ vay tiền của các khách hàng Huỳnh Thị Ng để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Ngân hàng A số tiền 500.000.000 đồng nên ngày 06/8/2019 Ngân hàng A đã chuyển vào tài khoản đứng tên bà Ngô Thùy D số tiền 500.000.000 đồng (bà D là vợ của bị cáo Tr, tài khoản này do bị cáo Tr tự đăng ký và quản lý sử dụng).

Căn cứ bảng sao kê tài khoản đứng tên bà D (BL326) thấy rằng, từ ngày 26/7/2019 đến ngày 06/8/2019 tài khoản đứng tên bà D có số dư 33.850 đồng và không phát sinh bất kỳ giao dịch nào, ngày 06/8/2019 Ngân hàng A đã chuyển 500.000.000 đồng vào tài khoản, số dư lúc này là 500.033.850 đồng, trong đó có 500.000.000 đồng là tiền bị cáo Tr chiếm đoạt của Ngân hàng A.

Cùng ngày 06/8/2019 bị cáo Tr sử dụng tài khoản này chuyển cho bà Lê Thị Ngân T số tiền 300.000.000 đồng để trả nợ số tiền 300.000.000 đồng bà T cho bị cáo Tr vay ngày 25/7/2019 (BL269, 326) nên có căn cứ xác định số tiền 300.000.000 đồng bị cáo Tr chuyển trả nợ cho bà T ngày 06/8/2019 là nằm trong khoản tiền 500.000.000 đồng bị cáo Tr làm giả hồ sơ của khách hàng Huỳnh Thị Ng để chiếm đoạt của Ngân hàng A.

Ngày 08/8/2019, bị cáo Tr hỏi mượn bà T 400.000.000 đồng, do 06/8/2019 bị cáo Tr chuyển trả nợ cho bà T 300.000.000 đồng, không đủ nên bà T phải nộp thêm tiền và chuyển vào tài khoản đứng tên bị cáo Tr 400.000.000 đồng (BL269, 333).

Do bị cáo Tr làm giả hồ sơ, thay đổi thông tin người thụ hưởng trong hồ sơ vay tiền của các khách hàng Trần Thị Yến Th để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Ngân hàng A số tiền 800.000.000 đồng nên ngày 11/9/2019 Ngân hàng A chuyển vào tài khoản đứng tên bà D số tiền 800.000.000 đồng.

Căn cứ bảng sao kê tài khoản đứng tên bà D (BL326) thấy rằng, từ ngày 06/9/2019 đến ngày 11/9/2019 tài khoản đứng tên bà D có số dư 117.415 đồng và không phát sinh bất kỳ giao dịch nào, ngày 11/9/2019 Ngân hàng A đã chuyển 800.000.000 đồng vào tài khoản, số dư lúc này là 800.117.415 đồng, trong đó có 800.000.000 đồng là tiền bị cáo Tr chiếm đoạt của Ngân hàng A.

Cùng ngày 11/9/2019 bị cáo Triểu sử dụng tài khoản này chuyển vào tài khoản đứng tên bị cáo Tr số tiền 400.000.000 đồng (BL326, 334) chuyển trả nợ cho bà T hai lần tổng số tiền 400.000.000 đồng (lần đầu số tiền 300.000.000 đồng và lần sau số tiền 100.000.000 đồng), để trả nợ số tiền 400.000.000 đồng bị cáo Tr vay bà T ngày 08/8/2019 (BL326, 273).

Những tình tiết nêu trên đủ cơ sở để xác định số tiền 400.000.000 đồng bị cáo Tr chuyển trả nợ cho bà T ngày 11/9/2019 là nằm trong khoản tiền 800.000.000 đồng bị cáo Tr làm giả hồ sơ của khách hàng Trần Thị Yến Th để chiếm đoạt của Ngân hàng A.

Căn cứ nhận định trên, cấp sơ thẩm buộc bà Lê Thị Ngân T có nghĩa vụ trả lại cho Ngân hàng A số tiền 400.000.000 đồng (bốn trăm triệu đồng) là có cơ sở, không chấp nhận kháng cáo của bà T, chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát.

Đối với ý kiến của người đại diện bà T trình bày: Cùng số tiền chiếm đoạt, bị cáo Tr có chuyển cho bà Nguyễn Thị Thu H tuy nhiên cấp sơ thẩm lại buộc bà T hoàn trả số tiền 400.000.000 đ cho Ngân hàng thương mại cổ phần đại chúng Việt Nam mà không buộc bà H trả lại là áp dụng pháp luật không thống nhất. Xét thấy tại hồ sơ vụ án, bị cáo Tr xác định ngoài số tiền trả cho bà T, số còn lại bị cáo dùng để dánh bạc, do đó bản án sơ thẩm buộc bị cáo Tr phải bồi thường cho Ngân hàng số tiền chiếm đoạt còn lại là phù hợp.

[3] Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xét và có hiệu lực kể từ ngày bản án sơ thẩm có hiệu lực theo luật định.

[4] Do không được chấp nhận kháng cáo, bà Lê Thị Ngân T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của người có quyền và nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Ngân T, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 40/2020/HS-ST ngày 22tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhândân tỉnh Tây Ninh.

1. Tuyên bố bị cáo Lê Hải Tr phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Hải Tr15 (mười lăm) năm tù; thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 12/12/2019.

2. Về bồi thường và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46; Điều 47 và Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2.1. Buộc bị cáo Lê Hải Tr có nghĩa vụ trả lại cho Ngân hàng A số tiền 1.300.000.000 đồng; khấu trừ số tiền 400.000.000 đồng bị cáo Lê Hải Tr đã chuyển trả nợ cho bà Lê Thị Ngân T; bị cáo Lê Hải Tr còn phải trả cho Ngân hàng A số tiền 900.000.000 đồng (chín trăm triệu đồng).

2.2. Buộc bà Lê Thị Ngân T có nghĩa vụ trả lại cho Ngân hàng A số tiền 400.000.000 đồng (bốn trăm triệu đồng).

2.3. Tiếp tục tạm giữ 01 thẻ rồng vàng 9999 có trọng lượng 37,5 gram (01 lượng) có mã số FS41214 do Công ty vàng bạc đá quý SJC sản xuất; qua kiểm tra thực tế là vàng thật, có trọng lượng 10 (mười) chỉ tương đương 37,5 (ba mươi bảy phẩy năm) gram, tuổi vàng 9999, để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng nêu trên hiện Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh đang quản lý).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải bàu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Án phí hình sự phúc thẩm: Bà Lê Thị Ngân T phải chịu 300.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bà T đã nộp đủ tại Biên lai thu số 0001410 ngày 13-10- 2020 của Cục thi hành án tỉnh Tây Ninh.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 243/2021/HS-PT ngày 22/04/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:243/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về