Bản án 243/2020/HS-ST ngày 04/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 243/2020/HS-ST NGÀY 04/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 237/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 245/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Lê Phúc Hửu N, sinh năm 1995 tại Bình Dương; hộ khẩu thường trú: 994C, đại lộ B, khu phố 2, phường Đ, thành phố T, tỉnh B; nghề ghiệp: Không;

trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Phúc H, sinh năm 1964 và bà Trần Thị T, sinh năm 1962; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 20/5/2015 bị Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh B xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 96/2015/HSST ngày 20/5/2015, chấp hành hình xong phạt tù ngày 26/4/2019, đã chấp hành xong án phí ngày 05/9/2015; bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 11/7/2020 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 02 giờ 20 phút ngày 11/7/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy phối hợp Công an phường Thới Hòa tuần tra, phát hiện Lê Phúc Hữu N đang đứng cạnh xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu xanh, biển số 61B2-117.70 trên vỉa hè đoạn đường Quốc lộ 13 thuộc khu phố 2, phường T, thị xã B, tỉnh B có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, lực lượng Công an thu giữ:

- 05 đoạn ống hút nhựa màu trắng viền xanh, hàn kín hai đầu chứa tinh thể màu trắng;

- 02 đoạn ống hút nhựa màu vàng, hàn kín hai đầu chứa tinh thể màu trắng;

- 01 túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng;

- 01 hộp hình chữ nhật có dòng chữ “Mentos” màu xanh lá cây;

- 01 bóp vải màu xanh dương;

- 01 xe mô tô hiệu Exciter màu xanh, biển số 61B2-117.70.

Tại cơ quan điều tra, N khai nhận là đối tượng sử dụng ma túy đá từ tháng 05/2020, nguồn ma túy N có sử dụng là do bạn bè cho và mua của người thanh niên tên Ngô Thành L (sinh năm 1985, hộ khẩu thường trú: khu phố 2, phường T, thị xã B, tỉnh B) để sử dụng.

Sáng ngày 09/7/2020, N có nhu cầu sử dụng ma túy nên điện thoại hỏi L để mua 1.000.000 đồng ma túy, L đồng ý và hứa gọi lại cho N. Đến khoảng 23 giờ ngày 10/7/2020, khi N đang ở nhà tại khu phố 2, phường Đ, thành phố T thì L gọi điện thoại kêu N đến nhà nghỉ V, thuộc khu phố 2, phường T, thị xã B để lấy ma túy, N đồng ý và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh, biển số 61B2-117.70, phía trước baga có treo 01 bóp vải màu xanh dương đến nhà nghỉ V nhưng không gặp L. Khoảng 02 giờ ngày 11/7/2020, L điện thoại kêu N chạy đến nhà L để lấy ma túy, N đồng ý và tiếp tục điều khiển xe mô tô biển số 61B2-117.70 đến đứng ven đường Quốc lộ 13, thuộc khu phố 2, phường Tân Định trước nhà L. Khoảng 05 phút sau, L từ trong nhà đi ra nhìn thấy trên xe N có bóp vải màu xanh dương treo phía trước baga nên kêu N đưa bóp vải cho L để bỏ ma túy vào, rồi đưa lại cho N. Sau đó, N mở bóp vải ra xem thì bên trong có 01 hộp hình chữ nhật có chữ “Mentos” màu xanh lá cây bên trong có chứa các đoạn ống hút bằng nhựa hàn kín hai đầu và túi nylon có chứa ma túy. Khoảng 02 giờ 20 phút cùng ngày, khi N đang để bóp vải màu xanh dương bên trong chứa ma túy trên ba ga của xe mô tô biển số 61B2-117.70, chuẩn bị điều khiển xe ra về thì bị lực lượng công an phát hiện và bắt giữ.

Theo kết luận giám định số 439/MT-PC09 ngày 17/7/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,7068 gam (M1); 0,4916 gam (M2); 0,4706 gam loại Methamphetamine.

Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh, biển số 61B2-117.70 do N đứng tên chủ sở hữu. N sử dụng xe mô tô này để đi mua ma túy về sử dụng nên là phương tiện phạm tội cần phải tịch thu.

Đối với Ngô Thành L, người đã bán ma túy cho N đã bỏ đi khỏi địa phương, hiện Cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ, khi xác định được sẽ xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 247/CT-VKS ngày 06 tháng 11 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo N về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát N dân thị xã Bến Cát tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy:

- 01 bì thư dán kín số 439/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 0,6173 gam (M1); 0,4157 gam (M2); 0,4035 gam (M3) loại Methamphetamine.

- 01 hộp hình chữ nhật có dòng chữ “Mentos” màu xanh lá cây;

- 01 bóp vải màu xanh dương;

Đề nghị tịch thu nộp Ngân Sách Nhà nước: 01 xe mô tô hiệu Exciter màu xanh, biển số 61B2-117.70, số khung RLCUG1010KY158913, số máy G3D4E925797.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát. Trong phần tranh luận tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của kiểm sát viên. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khong 02 giờ 20 phút, ngày 11/7/2020 tại quốc lộ 13, khu phố 2, phường T, thị xã B, tỉnh B, bị cáo N đã có hành vi cất giấu 1,669 gam ma túy loại Methamphetamine trong bóp vải màu xanh dương trên ba ga của xe mô tô biển số 61B2-117.70 của bị cáo thì bị công an phát hiện bắt giữ. Số ma túy bị cáo cất giấu là bị cáo mua của Ngô Thành L nhằm mục đích để sử dụng.

Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Như vậy, Cáo trạng số 247/CT-VKSBC ngày 06 tháng 11 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo N về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của Nhà nước. Bị cáo biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Bị cáo đã có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội thể hiện thái độ xem thường pháp luật của bị cáo. Do đó, lần phạm tội này cần phải có một mức hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và góp phần phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

nh tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên chấp nhận lời đề nghị của Viện Kiểm sát áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

nh tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Ngày 20/5/2015, bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 96/2015/HSST ngày 20/5/2015, chấp hành hình xong phạt tù ngày 26/4/2019, đã chấp hành xong án phí ngày 05/9/2015. Như vậy, bị cáo chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội nên phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) [4] Về vật chứng:

Đối với: 01 bì thư dán kín số 439/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 0,6173 gam (M1); 0,4157 gam (M2); 0,4035 gam (M3) loại Methamphetamine;

01 hộp hình chữ nhật có dòng chữ “Mentos” màu xanh lá cây; 01 bóp vải màu xanh dương là phương tiện phạm tội không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Exciter màu xanh, biển số 61B2-117.70, số khung RLCUG1010KY158913, số máy G3D4E925797 là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội cần tịch thu nộp Ngân Sách Nhà nước.

[5] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp nên được chấp nhận.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Lê Phúc Hửu N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Phúc Hửu N 02 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/7/2020.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Tịch thu tiêu hủy:

- 01 bì thư dán kín số 439/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 0,6173 gam (M1); 0,4157 gam (M2); 0,4035 gam (M3) loại Methamphetamine.

- 01 hộp hình chữ nhật có dòng chữ “Mentos” màu xanh lá cây;

- 01 bóp vải màu xanh dương;

Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 xe mô tô hiệu Exciter màu xanh, biển số 61B2-117.70, số khung RLCUG1010KY158913, số máy G3D4E925797.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lê Phúc Hửu N phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 243/2020/HS-ST ngày 04/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:243/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về