Bản án 243/2019/HS-ST ngày 09/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 243/2019/HS-ST NGÀY 09/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09-9-2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 243/2019/TLST-HS ngày 16-8- 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 243/2019/QĐXXST-HS ngày 27-8- 2019 đối với bị cáo:

Đặng Văn D, sinh năm 1978 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Xóm 9, xã T, huyện N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn D và bà Hoàng Thị M; có vợ là Nguyễn Thị H và ba con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18-6-2019 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N; bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng: Anh Cao Văn S và ông Nguyễn Ngọc T (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 18-6-2019, Tổ công tác Công an phường T, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực chợ R, đường P, phường T, thành phố N phát hiện Đặng Văn D đang ngồi trên xe máy biển kiểm soát F8-2310 có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra D thả từ tay trái xuống dưới đất 01 túi ni lông màu trắng trong suốt, Tổ công tác đã tiến hành thu giữ, mở kiểm tra bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (D khai đó là Heroine). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, mời người làm chứng và đưa D về trụ sở Công an lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của Đặng Văn D chiếc xe máy biển kiểm soát F8- 2310.

Bản kết luận giám định số 617/GĐKTHS ngày 21-6-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Đặng Văn D được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy Heroine, tổng khối lượng mẫu 0,144 gam.

Tại Cơ quan điều tra: Đặng Văn D đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích để sử dụng như sau: Khoảng 12 giờ 50 phút ngày 18-6- 2019, D điều khiển xe máy biển kiểm soát F8-2310 từ nhà đến khu vực Cống K, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định thì gặp 01 nam thanh niên không quen biết xin đi nhờ xe và rủ D góp tiền mua ma túy để sử dụng, D đồng ý và góp 110.000 đồng để chung tiền mua ma túy. Thanh niên cầm tiền D đưa bảo D chở đến nhà thờ lớn, thành phố N. Khi đến nơi D đứng chờ còn thanh niên đi khoảng 30 phút thì quay lại nói đã mua được ma túy và bảo D chở đến đường P, phường T, thành phố N để vào chợ R xin tiền cô. Đến nơi đối tượng này xuống xe đưa cho D 01 túi Heroine được gói bằng túi ni lông màu trắng, D cầm gói ma túy trong tay trái, còn đối tượng đi vào chợ R. Đúng lúc này D bị Công an kiểm tra, D đã thả từ tay trái xuống đất 01 gói Heroine thì bị phát hiện bắt giữ.

Bản Cáo trạng số 249/CT-VKSTPNĐ ngày 16-8-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Đặng Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Đặng Văn D xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay nhục hình. Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã nêu là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đặng Văn D theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đặng Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Đặng Văn D từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ số ma tuý đã thu giữ của bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo Đặng Văn D có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác như biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; bản kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; lời khai của những người làm chứng nên đã có đủ cơ sở kết luận khoảng 14 giờ 00 ngày 18-6-2019, tại khu vực chợ R, đường P, phường T, thành phố N bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,144 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Như vậy, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:

[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên đối với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng ...”. Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 gói ma túy trong phong bì niêm phong số 617/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Đối với nam thanh niên đã rủ Đặng Văn D đi mua ma túy để sử dụng và đối tượng đã bán ma túy cho thanh niên này Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đang tiến hành xác minh nên tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát F8-2310, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Trần Thị Nguyệt, sinh năm 1969, nơi cư trú: Xóm 9, xã T, huyện N, tỉnh Nam Định là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Đặng Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn D 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày 18-6-2019.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 gói ma túy trong phong bì niêm phong số 617/GĐKTHS (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 15-8-2019 giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).

3. Án phí: Bị cáo Đặng Văn D phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Đặng Văn D được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 243/2019/HS-ST ngày 09/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:243/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về