Bản án 242/2018/HNGĐ-ST ngày 12/10/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 242/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/10/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1022/2018/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 9 năm 2018 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 305/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phan Thị G, sinh năm 1993.

Địa chỉ: ấp H, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Ông Huỳnh Thanh P, sinh năm 1993.

Địa chỉ: ấp H, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.

(Các đương sự có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 06/9/2018, nguyên đơn chị Phan Thị G trình bày: Chị G và anh P cưới nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ, tỉnh Long An. Vợ chồng chung sống đến tháng 6 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân do anh P không chăm lo cho gia đình, vợ chồng thường gây gổ, cãi nhau và mâu thuẫn với gia đình bên chồng. Nay chị G khởi kiện yêu cầu:

Về tình cảm: Chị Phan Thị G yêu cầu ly hôn với anh Huỳnh Thanh P.

Về con chung: có 01 con chung tên Huỳnh Thanh P, sinh ngày 25/4/2015, hiện đang sống với anh P. Khi ly hôn, chị G yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu anh P cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Huỳnh Thanh P trình bày trong biên bản hòa giải ngày 14/9/2018 và tại phiên tòa như sau: anh P thống nhất điều kiện kết hôn và con chung, tình trạng hôn nhân như chị G trình bày. Về nguyên nhân mâu thuẫn, anh P cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn gì trầm trọng. Nay do còn thương vợ con nên anh P không đồng ý ly hôn và yêu cầu được đoàn tụ để cùng vợ chăm lo cho con chung.

Về con chung: Thống nhất có một con chung Huỳnh Thanh P, sinh ngày 25/4/2015, hiện đang sống với anh P. Khi ly hôn, chị G yêu cầu được nuôi con anh không đồng ý, anh cũng có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu chị G cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Phan Thị G không bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện, vẫn giữ các yêu cầu, ý kiến trình bày.

Bị đơn anh Huỳnh Thanh P không có đơn phản tố, xác định đã cung cấp đầy đủ chứng cứ, không bổ sung gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Chị Phan Thị G khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Huỳnh Thanh P, Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1]. Về tình cảm: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị G và anh P có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ, tỉnh Long An vào ngày 17/7/2014 nên hôn nhân giữa chị G và anh P là hôn nhân hợp pháp theo quy định Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét yêu cầu ly hôn của chị G đối với anh P: Chị G cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do anh P không chăm lo cho gia đình nên vợ chồng hay gây cãi nhau, mâu thuẫn cả gia đình bên chồng, hôn nhân không hạnh phúc. Xét lời trình bày của chị Phan Thị G về nguyên nhân mâu thuẫn được anh P thừa nhận và thực tế chị G, anh P đã ly thân từ tháng 7 năm 2018 đến nay nên không còn quan tâm lẫn nhau. Tại phiên tòa chị G cương quyết ly hôn còn anh P mong muốn được đoàn tụ nhưng không nêu được biện pháp hàn gắn. Từ đó, HĐXX xét hôn nhân giữa chị Phan Thị G và anh Huỳnh Thanh P đã mâu thuẫn trầm trọng, nên chị Phan Thị G yêu cầu xin ly hôn với anh Huỳnh Thanh P là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2]. Về con chung: Chị Phan Thị G và anh Huỳnh Thanh P thống nhất có 01 con chung tên Huỳnh Thanh P, sinh ngày 25/4/2015, hiện đang sống với anh P. Khi ly hôn, chị G và anh P đều yêu cầu được nuôi con chung. HĐXX xét từ khi ly thân với chị G thì con chung Huỳnh Thanh P do anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, nay anh P tha thiết được nuôi con vì anh có điều kiện nuôi tốt hơn. Do đó, HĐXX thấy để cháu Huỳnh Thanh P được chăm sóc tốt, phát triển ổn định cần giao cho anh P tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con: anh P không yêu cầu chị G cấp dưỡng, HĐXX xét đề nghị này của anh P là tự nguyện và phù hợp với các Điều 107, 110 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên ghi nhận.

[2.4]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Phan Thị G và anh Huỳnh Thanh P thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí tòa án;

Buộc nguyên đơn chị Phan Thị G phải chịu án phí ly hôn sung công quỹ nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 28, 35, 39, 147, 271 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 9, Điều 14, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 107, Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Phan Thị G với anh Huỳnh Thanh P.

Chị Phan Thị G được ly hôn với anh Huỳnh Thanh P.

2. Về con chung: Anh Huỳnh Thanh P được quyền nuôi con chung tên Huỳnh Thanh Phú, sinh ngày 25/4/2015, hiện đang sống với anh P.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Phan Thị G không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì anh P không yêu cầu.

4. Về quyền chăm sóc con chung: Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật

5. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Phan Thị G và anh Huỳnh Thanh P thống nhất tự thỏa thuận nên Hội đồng xét xử không xem xét.

6. Về án phí: Chị Phan Thị G phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước, khấu trừ 300.000đồng tạm ứng án phí mà chị G đã nộp theo biên lai số 0001672 ngày 07/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa sang án phí để thi hành. Chị Phan Thị G đã nộp đủ án phí.

7. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn, bị đơn có mặt được quyền kháng cáo.

Trường hợp bản án hoặc quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án là 05 năm theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 242/2018/HNGĐ-ST ngày 12/10/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:242/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về