TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN PHƯỚC, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 24/2021/HSST NGÀY 25/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 05 năm 2021, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:17/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 05 năm 2021, đối với bị cáo:
Họ và tên: Võ Tấn S; tên gọi khác: không có; sinh năm 1992 tại xã Tiên Hiệp, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: thôn 5, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam.
Con ông Võ Tấn D; sinh năm 1957 và bà Lê Thị H; sinh năm 1957. Vợ là Tống Thị K, sinh năm 1995 (đã ly hôn). Bị cáo có 1 con; sinh năm 2015.
Tiền án, tiền sự: không có.
Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm: 1966, trú tại: thôn 5, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lê Thị C, sinh năm: 1967, trú tại: thôn 5, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam.
Bà Chi ủy quyền cho ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm: 1966, trú tại: thôn 5, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam tham gia tố tụng theo giấy ủy quyền lập ngày 22/5/2020.
Ông Nguyễn Ngọc H vắng mặt.
2. Anh Huỳnh Quang L, sinh năm: 1991, trú tại: thôn 5, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
3. Anh Nguyễn Đình K, sinh năm: 1977, trú tại: thôn A, thị trấn T, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
4. Anh Cao Quốc H, sinh năm: 1995, trú tại: thôn 6, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Sáng ngày 20 tháng 5 năm 2020, ông H có cột một số con bò tại khu vực trước nhà bị cáo Võ Tấn S. Thấy có bò, S điện thoại cho Huỳnh Quang L nói: “Có bò rồi, có rảnh thì vô coi rồi mua” thì L trả lời “Ừ để trưa, có gì mình vô coi”. Khoảng 12 giờ cùng ngày, S dẫn L và người dắt bò thuê cho L là anh Nguyễn Đình K vào xem bò. Tại đây, S chỉ cho L xem một con bò cái, màu lông vàng, khoảng 4 năm tuổi, nặng khoảng 300 kg của ông H đang cột tại rẫy keo của ông Võ Tấn Hào. Sau khi xem bò, L hỏi S bán giá bao nhiêu thì S ra giá là 16.000.000 đồng (Mười sáu triệu đồng), L nói lại “Mười sáu triệu thì đắt quá, con này mười lăm triệu thì được” S trả lời “Ừ, thì bán”.
L đưa cho S số tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng), S nhận số tiền xong rồi cho lại L 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). Sau khi trả tiền, L điều khiển xe mô tô chở S đi ra quán nước cách nơi bán bò khoảng 1 km ngồi uống nước còn Kiên dắt bò đi sau. Sau đó, L về nhà lấy xe ô tô tải đến quán nước chở S đến chỗ Kiên cột bò, khi đi đến đoạn đường trước nhà ông Võ Tấn Dũng (cha của Võ Tấn S) sợ người khác phát hiện nhìn thấy nên S xuống xe, còn L tiếp tục chạy xe vào chỗ Kiên cột bò để chở về. Tối ngày 20 tháng 5 năm 2020, L đã bán con bò này cho Cao Quốc H với giá 20.500.000 đồng (Hai mươi triệu năm trăm nghìn đồng). Ngày 21 tháng 5 năm 2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Phước đã thu giữ được con bò này tại nhà của Cao Quốc H và tạm giữ của L số tiền 20.500.000 đồng (Hai mươi triệu năm trăm nghìn đồng). Sau khi bán được bò, Võ Tấn S dùng số tiền này để trả nợ và bỏ trốn vào thành phố Hồ Chí Minh, đến ngày 23 tháng 12 năm 2020, S về và ra đầu thú với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Phước, Quảng Nam. Hiện nay, S đã khắc phục hậu quả giao nộp cho Cơ quan điều tra số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng).
Tại Biên bản định giá và kết luận giá tài sản số 29/2020 ngày 29 tháng 5 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tiên Phước kết luận giá trị con bò của ông Nguyễn Ngọc H bị Võ Tấn S trộm cắp nêu trên là 21.000.000 đồng (Hai mươi mốt triệu đồng).
Tại bản cáo trạng số 21/CTr-VKSTP ngày 14/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam đã truy tố bị cáo Võ Tấn S về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam giữ nguyên toàn bộ nội dung Cáo trạng truy tố và luận tội, đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Võ Tấn S từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng và giao bị cáo cho chính quyền địa phương quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách án treo.
Về trách nhiệm dân sự: đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không tranh luận, xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Phước, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước, Điều tra viên, Kiểm sát viên thu thập được, các chứng cứ, tài liệu do người tham gia tố tụng cung cấp cũng như hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều đảm bảo tính pháp lý, đúng quy định của pháp luật.
[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Võ Tấn S khai nhận: Vì nợ nần túng thiếu, vào ngày 20 tháng 5 năm 2020, tại thôn 05, xã Tiên Hiệp, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt của ông Nguyễn Ngọc H một con bò trị giá 21.000.000 đồng (Hai mươi mốt triệu đồng) để bán lấy tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân.
[3]. Đối chiếu lời khai của bị cáo với kết luận định giá, lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Lợi dụng sự sơ hở của bị hại trong việc quản lý tài sản, vào ngày 20 tháng 5 năm 2020, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị 21.000.000 đồng (Hai mươi mốt triệu đồng). Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[4]. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Cáo trạng đã truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[5]. Xét tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra thì thấy: Quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật công nhận và bảo vệ; mọi hành vi xâm phạm bất hợp pháp đến tài sản của người khác đều bị pháp luật trừng trị. Bị cáo mặc dù nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do mục đích cá nhân nên đã lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến tài sản của người khác mà còn gây hoang mang lo lắng cho quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự tại địa phương. Do đó, cần phải có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng răn đe giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.
[6]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo trong vụ án thì thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi sự việc xảy ra, bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, tỏ rõ sự ăn năn hối cải. Ngoài ra, sau khi bỏ trốn thì bị cáo đã ra đầu thú đối với hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.
Xét thấy bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng; có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy nên áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) khi quyết định hình phạt đối với bị cáo để thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước, sự khoan hồng của pháp luật.
[7]. Về phần trách nhiệm dân sự: anh Huỳnh Quang L là người đã mua con bò từ bị cáo với số tiền 14.800.000 đồng; sau đó bán con bò cho anh Cao Quốc H với số tiền 20.500.000 đồng. Khi sự việc bị phát hiện, con bò đã được thu giữ và trả lại cho bị hại ông Nguyễn Ngọc H, số tiền 20.500.000 đồng trả lại cho anh Hiền. Bị hại ông Nguyễn Ngọc H, anh Cao Quốc H không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Còn anh L yêu cầu bị cáo trả cho anh số tiền 14.800.000 đồng (Mười bốn triệu tám trăm ngàn đồng). Xét thấy việc anh L yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại là có căn cứ. Tại phiên tòa, bị cáo và anh L thỏa thuận với nhau về việc bồi thường thiệt hại; việc thỏa thuận này là tự nguyện, đúng pháp luật, cần công nhận.
[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, trong vụ án này, Huỳnh Quang L, Nguyễn Đình K, Cao Quốc H đã có hành vi mua bò hoặc giúp sức trong việc mua bán bò; tuy nhiên, Huỳnh Quang L, Nguyễn Đình K, Cao Quốc H không biết đó là bò do Võ Tấn S trộm cắp của người khác để bán. Huỳnh Quang L, Nguyễn Đình K, Cao Quốc H không có ý thức cố ý mua bò trộm cắp và cũng không có hứa hẹn trước. Vì vậy, hành vi mua bò hoặc giúp sức trong việc mua bán bò của Huỳnh Quang L, Nguyễn Đình K, Cao Quốc H không vi phạm pháp luật, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Phước không xử lý; như vậy là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Võ Tấn S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ khoản 1, Điều 173, các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Võ Tấn S 01 (Một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (Hai) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25/5/2021).
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 246 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), các Điều 584, 585, 589 Bộ luật Dân sự, xử: Công nhận sự thỏa thuận của bị cáo Võ Tấn S và anh Huỳnh Quang L, cụ thể như sau:
Bị cáo Võ Tấn S có nghĩa vụ bồi thường cho anh Huỳnh Quang L với số tiền 14.800.000 đồng (Mười bốn triệu tám trăm ngàn đồng); được trừ vào số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) bị cáo đã tự nguyện nộp khắc phục trong quá trình điều tra (có trong tài khoản số 3949.0.9043903.00000 của Công an huyện Tiên Phước theo “Ủy nhiệm chi” lập ngày 15/4/2021). Số tiền còn lại bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho anh L là 6.800.000 đồng (Sáu triệu tám trăm ngàn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, anh Huỳnh Quang L có đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền bồi thường nêu trên cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn lại phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử: Bị cáo Võ Tấn S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 340.000 đồng (Ba trăm bốn mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo gửi lên Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam để yêu cầu xét xử theo trình tự phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/5/2021). Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 24/2021/HSST ngày 25/05/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 24/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiên Phước - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về