Bản án 24/2021/HS-PT ngày 10/03/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 24/2021/HS-PT NGÀY 10/03/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 10 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 07/2021/TLPT-HS ngày 08/01/2021 đối với bị cáo Trần Thị A cùng đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm 135/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.

* Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Trần Thị A, sinh năm 1962; nơi sinh: An Giang; nơi ĐKHKTT: Tổ A, Phường B, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: Số nhà 26 NK, Phường 02, thành phố Bảo Lộc, Lâm Đồng; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: Lớp 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Ch và bà Trần Thị N (đều đã chết); chồng : Phan Thành Đ, sinh năm 1963 (đã ly hôn) có 06 người con, con lớn sinh năm 1982, nhỏ sinh năm 1992.

Tiền án: Bản án số 83/2018/HSST ngày 20/11/2018 của TAND thành phố Bảo Lộc xử phạt 40.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”. Bị cáo nộp tiền vào ngày 16/4/2020, hiện nay chưa được xoá án tích.

Tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Tại bản án số 38/HSST ngày 10/4/2000 của Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt 07 năm tù về tội “Chứa mại dâm, môi giới mại dâm”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 12/4/2020 đến ngày 15/4/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

2. Họ và tên: Nguyễn Thị Trúc Ph, sinh năm 1972; nơi sinh: Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: số nhà 25 TCV, phường Lộc Tiến, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ văn hoá: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn R và bà Nguyễn Thị L (đều đã chết); chồng Nguyễn Phú Th, sinh năm 1970, có 02 người con, con lớn sinh năm 1996; nhỏ sinh năm 1997.

Tiền án: Bản án số 83/2018/HSST ngày 20/11/2018 của TAND thành phố Bảo Lộc xử phạt 30.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”. Bị cáo nộp tiền vào ngày 19/4/2020, hiện nay chưa được xoá án tích.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 12/4/2020 đến ngày 15/4/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

3. Họ và tên: Phan Thanh D (tên gọi khác: N), sinh năm 1983; nơi sinh: Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn A, xã LA, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn D (đã chết); con bà Nguyễn Ngọc A, sinh năm 1949; vợ Nguyễn Thị Kim Th, sinh năm 1985, có 02 người con, con lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2011.

Tiền sự: Không.

Tiền án: Bản án số 39/2014/HSST ngày 18/8/2014 của Toà án nhân dân huyện Bảo Lâm xử phạt 10.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”. Ngày 01/4/2020 bị cáo đóng tiền phạt, hiện chưa được xoá án tích.

Nhân thân: Năm 2000 bị Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt 12 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 12/4/2020 đến ngày 15/4/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

Trong vụ án này còn có các bị cáo khác không kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào trưa ngày 12/04/2020, Mai Thị Kim H rủ Nguyễn Thị Tuyết H và Trần Thị Thúy H đến khách sạn Thiên Ban tại tổ 12, phường 1, Tp.Bảo Lộc để đánh bạc. H mua bài và rủ thêm Nguyễn Thị Như M và Nguyễn Thị Linh C cùng tham gia. Đến 13 giờ cùng ngày, Hiền đến khách sạn Thiên Ban thuê phòng số 605 với giá 450.000 đồng rồi cùng Hạnh, Hằng, Chi chơi bài cào, còn Mai đi chợ nên quay lại tham gia sau. Sau đó, Trần Thị Thúy H rủ thêm Nguyễn Thị Phương U, Phan Thanh D và Lê Bích Nh; Nguyễn Thị V được rủ đến đánh bạc nhưng không xác định được ai rủ; Nguyễn Thị Phương U rủ Nguyễn Thị Thanh H và Đặng Thị Th; Nguyễn Thị Thanh H rủ Nguyễn Thị Trúc Ph; còn Võ Thị L, Nguyễn An Thanh Y, Trần Thị A và Võ Thị Th biết Hiền đang đánh bạc nên lần lượt đến khách sạn Thiên Ban, đồng thời Võ Thị L rủ Phùng Bạc M tham gia cùng, Trần Thị A rủ Lâm Văn Tr tham gia cùng Sau đó, Phan Thanh D, Lâm Văn Tr, Nguyễn Thị Trúc Ph, Nguyễn Thị Thanh H, Đặng Thị Th, Nguyễn Thị Phương U, Lê Bích Nh, Trần Thị A, Võ Thị Th, Nguyễn Thị V, Phùng Bạc M, Nguyễn An Thanh Y, Võ Thị L lần lượt tới nên nhóm của Hiền đánh bạc dưới hình thức chơi bài Xì Lát được thua bằng tiền với số tiền cá cược từ 50.000 đồng đến 300.000 đồng. Hiền và Hạnh góp 3.000.000 đồng (Hạnh không mang tiền nên Hiền bỏ tiền ra trước) để chung tiền làm cái và yêu cầu người chơi góp 50.000 đồng để trả tiền thuê phòng nhưng chưa có ai đóng góp. Sau đó Hiền và Hạnh chuyển cho Duy và Trung cùng nhau làm cái chia bài. Sau đó, Ánh, Mai, The, Chi, Yên, Liễu, Phương lần lượt nghỉ chơi giữa chừng nhưng không ra về mà ở lại xem mọi người đánh bài. Ngoài ra tại phòng 605 khách sạn Thiên Ban còn có Phan Thị Tú Anh, sinh năm 1982, trú tại tổ 9, phường 1, Tp.Bảo Lộc; Vũ Thị Soi, sinh năm 1964, trú tại số 24/40 đường 1/5, phường B’Lao, Tp.Bảo Lộc; Nguyễn Thị Thủy, sinh năm 1981, trú tại thôn 1, xã Lộc An, huyện Bảo Lâm; tại khách sạn Thiên Ban còn có Nguyễn Thị Diễm My, sinh năm 1997, trú tại thôn Thanh Bình, xã Lộc Đức, huyện Bảo Lâm và Ngô Đình Băng Trâm, sinh năm 1996, trú tại thôn 14, xã Lộc Ngãi, huyện Bảo Lâm nhưng không tham gia đánh bạc.

Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày, tại chiếu bạc đang có 10 tụ bài gồm: Phan Thanh D và Lâm Văn Tr chung nhau làm nhà cái; Mai Thị Kim H và Nguyễn Thị Tuyết H chơi chung tụ; Trần Thị Thúy H; Nguyễn Thị Thanh H; Lê Bích Nh; Phùng Bạc M; Nguyễn Thị Phương U; Võ Thị Th; Nguyễn Thị V chơi tụ riêng. Ngoài ra còn có Phùng Bạc M đứng ngoài gửi ké tiền vào các tụ bài khác. Các đối tượng nêu trên đang đánh bạc thì bị Cơ quan điều tra bắt quả tang, thu giữ được số tiền 27.745.000 đồng gồm: 6.240.000 đồng trên chiếu bạc;

18.405.000 đồng xung quanh chiếu bạc; 3.100.000 đồng trên mái nhà bên cạnh khách sạn Thiên Ban; 07 bộ bài tây 52 lá chưa sử dụng và một số lá bài đã qua sử dụng ở xung quanh hiện trường.

Cơ quan điều tra thu giữ từ các đối tượng nêu trên được tổng cộng 30.050.000 đồng; 22 điện thoại di động và 06 xe mô tô các loại, gồm: từ Mai Thị Kim H 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone XS Max; từ Nguyễn Thị Tuyết H 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone XS Max; từ Trần Thị Thúy H số tiền 10.000.000 đồng và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo F9 màu tím hồng; từ Nguyễn Thị Linh C 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung Galaxy A5 màu vàng đồng; từ Lâm Văn Tr số tiền 1.000.000 đồng và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo F9 màu xanh đen; thu giữ từ Phan Thanh D 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 105 màu đen và 01 xe mô tô biển số 49T2- 9325; từ Lê Bích Nh số tiền 500.000 đồng cùng 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung J6+, 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung A9s màu vàng đồng và 01 xe mô tô biển số 49K1-391.59; từ Nguyễn An Thanh Y số tiền 1.200.000 đồng và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo A3S màu tím; từ Phùng Bạc M số tiền 1.000.000 đồng; từ Nguyễn Thị Như M số tiền 700.000 đồng và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo F11; từ Nguyễn Thị Phương U số tiền 50.000 đồng; từ Trần Thị A số tiền 1.200.000 đồng cùng 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 230 màu đen và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 màu vàng đồng; từ Võ Thị Th số tiền 2.000.000 đồng cùng 01 xe mô tô biển số 49M8-5860, 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 105 màu đen và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Mobile màu đen; từ Nguyễn Thị Trúc Ph số tiền 1.400.000 đồng và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung Galaxy A7 màu đen; từ Nguyễn Thị V số tiền 900.000 đồng cùng 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung Galaxy A6 màu vàng và 01 xe mô tô biển số 49K1-658.98; từ Đặng Thị Th số tiền 400.000 đồng và 01 ĐTDĐ Samsung Galaxy A5 màu bạc; từ Nguyễn Thị Thanh H 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 106 màu đen; từ Nguyễn Thị Thủy số tiền 100.000 đồng; từ Phan Thị Tú Anh số tiền 800.000 đồng cùng 01 xe mô tô biển số 49P4-6266, 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 105 màu đen và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung Galaxy J7; từ Vũ Thị Soi số tiền 7.800.000 đồng cùng 01 xe mô tô biển số 49K1-401.36 và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo A7 màu xám bạc; từ Nguyễn Thị Diễm My số tiền 500.000 đồng; từ Ngô Đình Băng Trâm số tiền 500.000 đồng; Ngoài ra thu giữ tại hiện trường 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh chưa xác định được chủ sở hữu.

Quá trình điều tra đã xác định được: Mai Thị Kim H mang theo 3.000.000 đồng để đánh bạc, đã bỏ ra chiếu bạc để làm nhà cái chung với Nguyễn Thị Tuyết H, không rõ số tiền thắng thua nhưng không còn tiền trên người; Nguyễn Thị Tuyết H không mang theo tiền mà chơi chung với Hiền; Trần Thị Thúy H mang theo 10.400.000 đồng để đánh bạc, đã bỏ ra chiếu bạc 400.000 đồng nên bị thu giữ trên người 10.000.000 đồng; Nguyễn Thị Như M mang theo 900.000 đồng để đánh bạc, đã bỏ ra chiếu bạc 200.000 đồng nên bị thu giữ 700.000 đồng trên người; Nguyễn Thị Linh C mang theo 1.000.000 đồng để đánh bạc, đã bỏ ra chiếu bạc 300.000 đồng, gửi tụ bà Yên 700.000 đồng nên không còn tiền trên người; Phan Thanh D mang theo 1.450.000 đồng để đánh bạc, sau khi chơi thắng được 50.000 đồng đã bỏ ra chiếu bạc 1.500.000 đồng để góp tiền chơi chung với Lâm Văn Tr nên không còn tiền trên người; Lâm Văn Tr mang theo số tiền 2.250.000 đồng, sau khi chơi thắng được 50.000 đồng đã bỏ ra chiếu bạc 1.300.000 đồng để góp tiền chơi chung với Duy nên bị thu giữ trên người 1.000.000 đồng; Nguyễn Thị Trúc Ph mang theo 900.000 đồng để đánh bạc, đã thắng được 500.000 đồng nên bị thu giữ trên người 1.400.000 đồng; Nguyễn Thị Thanh H mang theo 850.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt quả tang đã ném tiền xung quanh chiếu bạc nên không còn tiền trên người; Đặng Thị Th mang theo 1.000.000 đồng để đánh bạc, đã bỏ ra chiếu bạc 600.000 đồng nên bị thu giữ trên người 400.000 đồng; Nguyễn Thị Phương U mang theo 550.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt quả tang đã ném tiền xung quanh chiếu bạc nên chỉ bị thu giữ trên người 50.000 đồng; Lê Bích Nh mang theo 7.000.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt quả tang đã ném tiền xung quanh chiếu bạc nên chỉ bị thu giữ trên người 500.000 đồng; Trần Thị A mang theo 1.400.000 đồng để đánh bạc, thua 200.000 đồng thì nghỉ chơi nên bị thu giữ trên người 1.200.000 đồng; Võ Thị Th mang theo 2.700.000 đồng đã bỏ ra chiếu bạc 700.000 đồng nên bị thu giữ trên người 2.000.000 đồng; Nguyễn Thị V mang theo 1.200.000 đồng để đánh bạc, đã bỏ ra chiếu bạc 300.000 đồng nên bị thu giữ trên người 900.000 đồng; Phùng Bạc M mang theo 2.000.000 đồng để đánh bạc, đã bỏ ra chiếu bạc 400.000 đồng, khi bỏ chạy làm rơi tại hiện trường 600.000 đồng nên bị thu giữ trên người 1.000.000 đồng; Nguyễn An Thanh Y mang theo 1.900.000 đồng để đánh bạc, đã bỏ ra chiếu bạc 700.000 đồng nên bị thu giữ trên người 1.200.000 đồng; Võ Thị L mang theo 350.000 đồng để đánh bạc và thua hết nên không còn tiền trên người. Ngoài ra còn thu giữ từ Nguyễn Thị Thủy số tiền 100.000 đồng, từ Phan Thị Tú Anh số tiền 800.000 đồng, từ Vũ Thị Soi số tiền 7.800.000 đồng, Nguyễn Thị Diễm My số tiền 500.000 đồng và Ngô Đình Băng Trâm số tiền 500.000 đồng nhưng không dùng để đánh bạc.

Như vậy tổng số tiền được các đối tượng dùng để đánh bạc là 48.095.000 đồng, trong đó: thu từ hiện trường được 27.745.000 đồng và thu giữ trên người các đối tượng nêu trên số tiền dùng để đánh bạc là 20.350.000 đồng.

Về vật chứng:

- Cơ quan điều tra đã xác minh và ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển số 49K1-658.98 cho chủ sở hữu là ông Lương Ngọc Doanh, sinh năm 1955, trú tại số 439/8 Trần Phú, phường Lộc Sơn, Tp.Bảo Lộc; trả lại xe mô tô biển số 49P4-6266 cho chủ sở hữu là chị Phan Thị Hà My, sinh năm 1987, trú tại tổ 9, phường 1, Tp.Bảo Lộc; trả lại xe mô tô biển số 49M8-5860 cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Đình Lâm, sinh năm 1968, trú tại số 695/25 Trần Phú, phường B’lao, Tp.Bảo Lộc; trả lại xe mô tô biển số 49K1-401.36 cho chủ sở hữu là bà Vũ Thị Soi, sinh năm 1964, trú tại số 24/40 đường 1/5, phường B’lao, Tp.Bảo Lộc; trả lại xe mô tô biển số 49K1-391.59 cho chủ sở hữu là anh Lê Nam Thái Bảo, sinh năm 1991, trú tại tổ 14, phường B’lao, Tp.Bảo Lộc – là các tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội.

- Hiện nay Cơ quan điều tra đang tạm giữ số tiền 57.795.000 đồng, 01 xe mô tô biển số 49T2-9325; 22 điện thoại di động các loại và một số đồ vật khác gồm: 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone XS Max; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone XS Max; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo F9 màu tím hồng; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung Galaxy A5 màu vàng đồng; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo F9 màu xanh đen; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 105 màu đen và; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung J6+, 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung A9s màu vàng đồng; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo A3S màu tím; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo F11; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 230 màu đen; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 màu vàng đồng; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 105 màu đen và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Mobile màu đen;

01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung Galaxy A7 màu đen; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung Galaxy A6 màu vàng; 01 ĐTDĐ Samsung Galaxy A5 màu bạc; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 106 màu đen; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 105 màu đen;

01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung Galaxy J7; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo A7 màu xám bạc; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh; 07 bộ bài tây 52 lá chưa sử dụng và một số lá bài đã qua sử dụng Tại bản cáo trạng số 106/CT-VKS ngày 23 tháng 9 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc đã truy tố các bị cáo Mai Thị Kim H; Nguyễn Thị Tuyết H; Trần Thị Thúy H; Nguyễn Thị Như M; Nguyễn Thị Linh C; Phan Thanh D; Lâm Văn Tr; Đặng Thị Th; Lê Bích Nh; Nguyễn An Thanh Y; Nguyễn Thị Trúc Ph; Nguyễn Thị V; Nguyễn Thị Phương U; Nguyễn Thị Thanh H; Phùng Bạc M; Trần Thị A; Võ Thị L; Võ Thị Th về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại bản án số 135/2020/HSST ngày 30/11/2020 của Toà án nhân dân thành phố Bảo Lộc đã xử;

Tuyên bố các bị cáo Mai Thị Kim H, Nguyễn Thị Tuyết H, Trần Thị Thúy H, Nguyễn Thị Như M, Nguyễn Thị Linh C, Phan Thanh D, Lâm Văn Tr, Đặng Thị Th, Lê Bích Nh, Nguyễn An Thanh Y, Nguyễn Thị Trúc Ph, Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị Phương U, Nguyễn Thị Thanh H, Phùng Bạc M, Trần Thị A, Võ Thị L, Võ Thị Th phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Mai Thị Kim H 70.000.000đ (bảy mươi triệu đồng);

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Tuyết H 70.000.000đ (bảy mươi triệu đồng);

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Trần Thị Thúy H 70.000.000đ (bảy mươi triệu đồng);

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Như M 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) ;

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Linh C 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng);

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Phan Thanh D 12 (mười hai) tháng tù, phạt bổ sung 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng);

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Lâm Văn Tr 70.000.000đ (bảy mươi triệu đồng);

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Trúc Ph 12 (mười hai) tháng tù, phạt bổ sung 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng);

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh H 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng);

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Đặng Thị Th 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng);

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Phương U 70.000.000đ (bảy mươi triệu đồng);

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Lê Bích Nh 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng);

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Trần Thị A 15 (mười lăm) tháng tù, phạt bổ sung 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng);

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Võ Thị Th 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng);

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35;

Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị V 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng);

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Phùng Bạc M 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng);

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn An Thanh Y 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng);

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Võ Thị L 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng).

Ngoài ra, bản án còn xử lý vật chứng, tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 07/12/2020 bị cáo Trần Thị A có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 14/12/2020 bị cáo Nguyễn Thị Trúc Ph có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Ngày 14/12/2020 bị cáo Phan Thanh D có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm; các bị cáo không thắc mắc, khiếu nại nội dung Bản án sơ thẩm và giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ lời khai của các bị cáo và các chứng cứ có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận: Vào chiều ngày 12/04/2020, phòng số 605 khách sạn Thiên Ban tại tổ 12, phường 1, Tp.Bảo Lộc, Cơ quan cảnh sát điều tra đã bắt quả tang các đối tượng Mai Thị Kim H, Nguyễn Thị Tuyết H, Trần Thị Thúy H, Nguyễn Thị Như M, Nguyễn Thị Linh C, Phan Thanh D, Lâm Văn Tr, Đặng Thị Th, Lê Bích Nh, Nguyễn An Thanh Y, Nguyễn Thị Trúc Ph, Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị Phương U, Nguyễn Thị Thanh H, Phùng Bạc M, Trần Thị A, Võ Thị L, Võ Thị Th đang đánh bạc thắng thua bằng tiền bằng hình thức xì lát với tổng số tiền là 48.095.000 đồng.

Đối chiếu lời khai nhận tội của các bị cáo, vật chứng thu giữ, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ khác có trong hồ sơ, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Mai Thị Kim H, Nguyễn Thị Tuyết H, Trần Thị Thúy H, Nguyễn Thị Như M, Nguyễn Thị Linh C, Phan Thanh D, Lâm Văn Tr, Đặng Thị Th, Lê Bích Nh, Nguyễn An Thanh Y, Nguyễn Thị Trúc Ph, Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị Phương U, Nguyễn Thị Thanh H, Phùng Bạc M, Trần Thị A, Võ Thị L, Võ Thị Th phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của các bị cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo gửi trong hạn luật định và đúng quy định nên được xem xét.

Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác, các bị cáo nhận thức rõ Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền nhưng vẫn cố tình thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật. Các bị cáo đã từng bị xử phạt về tội “Đánh bạc” đều chưa được xoá án tích nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng nay lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này các bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Tái phạm”. Ngoài ra, bị cáo Ánh và bị cáo Duy về nhân thân cũng bị xét xử về các tội phạm khác. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét sau khi phạm tội các bị cáo thành khẩn khai báo, xem xét nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội để xử phạt các bị cáo mức hình phạt như trên là phù hợp. Các bị cáo giữ nguyên kháng cáo nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng tại phiên tòa là phù hợp.

[3] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Thị A, Nguyễn Thị Trúc Ph, Phan Thanh D; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố các bị cáo Trần Thị A, Nguyễn Thị Trúc Ph, Phan Thanh D phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Trần Thị A 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 12/4/2020 đến ngày 15/4/2020 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

Phạt bổ sung bị cáo Trần Thị A 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng);

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Trúc Ph 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 12/4/2020 đến ngày 15/4/2020 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thị Trúc Ph 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng).

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Phan Thanh D 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 12/4/2020 đến ngày 15/4/2020 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

Phạt bổ sung bị cáo Phan Thanh D 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng).

2. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Trần Thị A, Nguyễn Thị Trúc Ph, Phan Thanh D, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

369
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2021/HS-PT ngày 10/03/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:24/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về