Bản án 24/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 24/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Cù Văn N, sinh ngày 23 tháng 10 năm 1984 tại thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKHKTT: Bản S, xã HL, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt N; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông Cù Huy B, sinh năm 1950 và con bà Lê Thị L, sinh năm 1952; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26 tháng 8 năm 2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 20 phút ngày 26/8/2020, tổ công tác Công an phường QT, thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 6, phường Quyết QT, thành phố Sơn La, phát hiện và bắt quả tang Cù Văn N có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ: 01 gói giấy màu trắng bên trong có 06 viên nén hình tròn màu hồng (N tự giác lấy từ túi quần phía trong bên phải ra giao nộp và khai nhận là hồng phiến, mục đích sử dụng).

Ngày 26/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La thành lập Hội đồng bóc, mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu trưng cầu giám định gửi phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, kết quả: 06 viên nén hình tròn màu hồng thu giữ của N có khối lượng: 0,6 gam; lấy 06 viên khối lượng 0,3 gam (ký hiệu N1) làm mẫu trưng cầu giám định.

Kết luận giám định số 1389 ngày 28/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu N1 là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là: 0,3 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,6 gam; loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra bị cáo Cù Văn N khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy, khoảng 12 giờ 00 phút ngày 26/8/2020, Cù Văn N đón ô tô buýt từ khu vực tổ 3, phường QT, thành phố Sơn La đến khu vực chợ cấp hai thuộc tổ 4, phường QT, thành phố Sơn La tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây, N gặp và mua của một N giới không quen biết 01 gói ma túy bên trong chứa 06 viên hồng phiến với giá 500.000 đồng. Sau đó, N cất số ma túy vừa mua vào túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi đi bộ đến khu vực tổ 6, phường QT, thành phố Sơn La tìm nơi sử dụng thì bị Cơ quan công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Về nguồn gốc 0,6 gam Methamphetamine, bị cáo khai mua của một N giới không quen biết tại khu vực chợ cấp hai thuộc tổ 4, phường QT, thành phố Sơn La. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh. Do vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La không có căn cứ để mở rộng điều tra vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 218/CT-VKSTP ngày 19/11/2020, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Cù Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Cù Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Cù Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Cù Văn N từ 15 đến 18 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ sau khi trừ đi mẫu gửi giám định.

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Cù Văn N nhận tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn la, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Ngày 26/8/2020, tại tổ 6, phường QT, thành phố Sơn La, Cù Văn N đã có hành vi cất giữ trái phép 0,6 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 30 phút ngày 26/8/2020 tại khu vực tổ 6, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đối với Cù Văn N cùng vật chứng thu giữ là 01 gói giấy màu trắng, bên trong có 06 viên nén hình tròn màu hồng có tổng khối lượng 0,6 gam Methamphetamine:

- Lời khai nhận tội của bị cáo:

- Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 1389 ngày 28/8/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của ông Vương Toàn L, sinh năm 1967, trú tại: Tổ 6, phường QT, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với kết quả điều tra.

Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Cù Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo Cù Văn N phạm tội với tổng khối lượng 0,6 gam Methamphetamine đã vi phạm tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng.

Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe giáo dục và phòng ngừa chung, trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Gia đình bị cáo có bố bị cáo là ông Cù Huy B được nhà nước tặng hai Huy chương kháng chiến hạng nhì, mẹ bị cáo là bà Lê Thị L được Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La tặng Huy hiệu “Vì sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh Sơn La” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy chưa có tiền án, tiền sự.

[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về nguồn gốc 0,6 gam Methamphetamine bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người N giới không quen biết tại khu vực chợ cấp hai thuộc tổ 4, phường QT, thành phố Sơn La. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh. Do vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La không có căn cứ để mở rộng điều tra vụ án.

[6] Vật chứng vụ án:

Đối với 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy màu trắng; mẫu N2= 0,3 gam”, là vật Nhà Nước cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy, căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo Cù Văn N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Cù Văn N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Cù Văn N 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 26/8/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) chiếc phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong, mặt trước ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Cù Văn N, sinh năm 1984 - Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 26/8/2020. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy màu trắng; Mẫu lưu N2 = 0,3 gam”, mặt sau phong bì dán giấy niêm phong số 041031 ghi “Cơ quan CSĐT - CATP.Sơn La hồi 18 giờ 30 phút ngày 26/8/2020 tại CATP.Sơn La, tỉnh Sơn La”, tại phần giáp lai giấy dán niêm phong và phong bì có 01 hình dấu tròn đỏ của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La và chữ ký, họ tên của thành phần niêm phong, đối tượng bị bắt, kiểm tra niêm phong còn nguyên vẹn.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/11/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: khoản 1 Điều 21 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14: Buộc bị cáo Cù Văn N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Cù Văn N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 30/11/2020)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:24/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về