Bản án 24/2020/HNGĐ-ST ngày 20/08/2020 về không công nhận vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 24/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN VỢ CHỒNG

Ngày 20 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 62/2020/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 6 năm 2020 về việc Xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2020/QĐXX-ST ngày 31 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Dương Thị T, sinh năm 1976; Địa chỉ: Thôn H, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk - (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Triệu Văn T, sinh năm 1979; Địa chỉ: thôn 03, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông - (Có đơn xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 11/5/2020, lời khai trong quá trình điều tra bà Dương Thị T trình bày: bà và ông T chung sống với nhau từ năm 1998 đến năm 2006, không có đăng ký kết hôn. Hôn nhân là hoàn toàn tự nguyện. Trong quá trình sống chung, ông bà xảy ra nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung trong gia đình, vợ chồng không hợp nhau nên bà đã sống ly thân với ông T từ năm 2006 đến nay, nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông T.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, ông bà có hai người con chung là cháu Triệu Thị H, sinh ngày 05/4/2000 và cháu Triệu Sáng Đ, sinh ngày 13/10/2002, bà T xin được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Đ và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản chung: ông bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: không có yêu cầu giải quyết.

2. Theo lời khai của ông Triệu Văn T trong quá trình giải quyết vụ án: ông T thừa nhận cuộc sống gia đình không hợp nhau dẫn đến mâu thuẫn xích mích, dần dần vợ chồng không còn tình cảm nữa, đã ly thân từ năm 2006 đến nay. Ông T đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà T và không có ý kiến gì, ông T đồng ý giao cháu Đ cho bà T chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục cho đến khi cháu Đ đủ 18 tuổi và không cấp dưỡng nuôi con.

Ngày 29/6/20120, bà T, ông T có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt và giữ nguyên theo yêu cầu khởi kiện.

3. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tham gia phiên toà xác định: Việc tuân thủ theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm đều tuân thủ trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.

Và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 97, Điều 144, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Áp dụng Điều 9, Điều 14, Điều 15; Điều 51 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn.

- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận bà Dương Thị T và ông Triệu Văn T là vợ chồng.

- Về nuôi con chung: Giao cháu Triệu Sáng Đ, sinh ngày 13/10/2002 cho bà T chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục cho đến khi cháu Đ đủ 18 tuổi và không yêu cầu cấp dưỡng.

- Về chia tài sản chung và công nợ: Không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết.

- Về án phí: Bà Dương Thị T chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

1. Về pháp luật tố tụng:

[1] Về quan hệ tranh chấp: Bà Dương Thị T yêu cầu ly hôn với ông Triệu Văn T, đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình (ly hôn) thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn là ông Triệu Văn T có địa chỉ cư trú tại: thôn 03, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Nên Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil thụ lý và giải quyết là đúng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

2. Về pháp luật nội dung:

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 1998 bà T và ông T trên cơ sở tự nguyện đã chung sống với nhau như vợ chồng đến năm 2006. Tuy không đăng ký kết hôn, nhưng được sự chứng kiến của hai bên họ hàng. Lẽ ra, khi đã là vợ chồng thì ông bà phải yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc, bền vững. Nhưng trái lại, khi bước vào cuộc sống chung thì cả hai cùng bộc lộ những tính cách khác nhau, lối sống trái ngược nhau, vợ chồng không thông cảm với nhau, không nhường nhịn nhau mà thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Trong quá trình điều tra ông T cũng thừa nhận là vợ chồng anh chị có quá nhiều mâu thuẫn nên hôn nhân không thể kéo dài. Việc ly hôn thật sự là cần thiết để giải phóng cho một cuộc hôn nhân không đạt được mục đích. Xét thấy, ông T và bà T cũng đã có thời gian sống ly thân từ năm 2006 cho đến nay và không quan tâm đến nhau nữa. Điều đó cho thấy quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T là trầm trọng. Hôn nhân của ông bà thật sự không đạt được mục đích. Vì vậy, để giải phóng cho hôn nhân không còn mục đích, Hội đồng xét xử xác định, chấp nhận đơn xin ly hôn của bà T và giải quyết bà T được ly hôn với ông T.

Bà Dương Thị T và ông Triệu Văn T đều đồng ý thuận tình ly hôn, do đó Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận đơn xin ly hôn của bà T là phù hợp. Tuy nhiên, hôn nhân giữa bà T và ông T không có đăng ký kết hôn nên theo quy định tại Điều 14, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, quan hệ giữa ông T và bà T không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng.

[3]. Về con chung: trong quá trình làm việc các đương sự đã thỏa thuận được việc nuôi con như sau: bà Dương Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục cháu Triệu Sáng Đ, sinh ngày 13/10/2002; xét ý kiến của cháu Đ muốn được ở với mẹ nên cần chấp nhận theo thỏa thuận của các đương sự. Các đương sự không có yêu cầu cấp dưỡng.

[4]. Về tài sản chung: đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết. [5]. Về nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[6]. Về án phí: Bà Dương Thị T phải chịu án phí DSST theo quy định của pháp luật.

[7]. Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông tại phiên toà là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 14; Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và tuyên xử:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Dương Thị T. Không công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà Dương Thị T và ông Triệu Văn T là quan hệ vợ chồng.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Triệu Sáng Đ sinh ngày 13/10/2002 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền đi lại, thăm nom và chăm sóc, giáo dục con chung, người trực tiếp nuôi con không được cản trở hoặc gây trở ngại đến việc thăm nom, giáo dục các cháu.

Việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật HNGĐ năm 2014.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: các đương sự không có yêu cầu.

Vì lợi ích của con chung theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; yêu cầu cấp dưỡng theo quy định các Điều 84; Điều 110 ; Điều 117; Điều 118 và Điều 119 Luật Hôn nhân gia đình 2014 4. Về chia tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra để giải quyết.

5. Về án phí: bà Dương Thị T nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003426 ngày 16/6/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

Nguyên đơn, Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2020/HNGĐ-ST ngày 20/08/2020 về không công nhận vợ chồng

Số hiệu:24/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về