Bản án 24/2020/HNGĐ-ST ngày 09/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM DƯƠNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 24/2020/HNGĐ-ST NGÀY 09/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 09 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 146/2020/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 7 năm 2020, về việc:“Tranh chấp Hôn nhân gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Dương Thị Kim Đ, sinh năm 1989; ĐKHKTT: Xóm M, thị trấn HH, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Xóm G, xã DP, huyệ TD, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Q- sinh năm 1987; nơi cư trú: Xóm M, thị trấn HH, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Toà án nguyên đơn Chị Dương Thị Kim Đ trình bày: Chị và Anh Nguyễn Văn Q kết hôn ngày 16/12/2008 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn HH, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống cùng gia đình anh Q, thời gian đầu tình cảm vợ chồng bình thường, đến năm 2017 vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Q chơi bời rượu chè, không tu chí làm ăn, không có trách nhiệm với vợ con, thường xuyên chửi bới đánh đập chị. Chị và gia đình nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh Q không thay đổi cách sống, từ đó mâu thuẫn vợ chồng liên tục xảy ra. Đến ngày 02/9/2018 do mâu thuẫn vợ chồng quá căng thẳng nên chị đã về nhà mẹ đẻ sống, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị Đ xét thấy thực sự tình cảm vợ chồng không còn, chị tha thiết đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn, để vợ chồng ổn định cuộc sống.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Thu Quỳnh, sinh ngày 10/02/2010 (hiện nay đang ở cùng chị Đ), vợ chồng ly hôn chị Đ đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Quỳnh, không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay chị đang ở cùng mẹ đẻ ở tại: Xóm G, xã DP, huyện T D, tỉnh Vĩnh Phúc và đang làm việc tại Công ty SHIWON EBENEZER VIỆT NAM ở khu công nghiệp Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, thu nhập 6.300.000đ/tháng.

Về tài sản, vay nợ, công sức, đất canh tác: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa chị Đ giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn anh Q vì thực sự tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thu Quỳnh, sinh ngày 10/02/2010.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh Q đều vắng mặt không có lý do, do đó Tòa án không tiến hành hòa giải được và đã làm đầy đủ các thủ tục xét xử vắng mặt của đương sự theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Dương phát biểu ý kiến, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các Điều 56; 81; 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho Chị Dương Thị Kim Đ được ly hôn Anh Nguyễn Văn Q. Về con chung: Giao cho chị Đ trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thu Quỳnh, sinh ngày 10/02/2010, anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con. Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Đ phải chịu theo quy định của Pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.

[2] Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn vắng mặt, Tòa án đã làm đầy đủ các thủ tục đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 Toà án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo thủ tục chung.

[3] Về pháp luật áp dụng trong vụ án: Đây là vụ án tranh chấp “Hôn nhân và gia đình”, do đó pháp luật được áp dụng giải quyết trong vụ án là Luật Hôn nhân và gia đình; Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về nội dung vụ án: Chị Dương Thị Kim Đ và Anh Nguyễn Văn Q kết hôn ngày 16/12/2008 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn HH, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc. Do đó đây là cuộc hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Q có lối sống buông thả, chơi bời cờ bạc, sống không có trách nhiệm với gia đình. Do mâu thuẫn vợ chồng quá căng thẳng nên vợ chồng sống ly thân từ tháng 9/2018 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị Đ xét thấy thực sự tình cảm vợ chồng không còn, chị tha thiết đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn, để vợ chồng ổn định cuộc sống.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập nhiều lần nhưng anh Q đều vắng mặt không có lý do, do đó Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án xác minh tại Ủy ban nhân dân thị trấn HH đã xác định: Chị Dương Thị Kim Đ và Anh Nguyễn Văn Q kết hôn ngày 16/12/2008 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn HH, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc. Trong quá trình chung sống vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau, nguyên nhân cụ thể như thế nào chính quyền địa phương không rõ, vì thực tế anh chị không báo cáo chính quyền địa phương. Từ khoảng tháng 9/2018 chị Đ đã về nhà mẹ để sống, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Nay chị Đ có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của Pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã lấy lời khai của ông Nguyễn Văn H (là bố đẻ anh Q), ông H xác định: Chị Dương Thị Kim Đ và Anh Nguyễn Văn Q kết hôn ngày 16/12/2008 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn HH, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống cùng gia đình ông. Trong quá trình chung sống vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, khó khăn về kinh tế. Mâu thuẫn đỉnh điểm vào khoảng tháng 9/2018 vợ chồng cãi nhau, nguyên nhân cụ thể gia đình không rõ. Từ đó chị Đ đã đưa con bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống cho đến nay, trong thời gian vợ chồng sống ly thân không liên lạc gì với gia đình và anh Q. Hiện nay anh Q làm nghề tự do vẫn thường xuyên về nhà. Nay chị Đ có đơn xin ly hôn anh Q, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đ, xử cho Chị Dương Thị Kim Đ được ly hôn Anh Nguyễn Văn Q.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Thu Quỳnh, sinh ngày 10/02/2010 (hiện nay đang ở cùng chị Đ). Tòa án đã lấy lời khai của cháu Quỳnh, nguyện vọng của cháu muốn được ở với mẹ. Do đó giao cho Chị Dương Thị Kim Đ được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thu Quỳnh, sinh ngày 10/02/2010. Anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung; tài sản riêng; vay nợ; công sức; đất canh tác: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm; Chị Dương Thị Kim Đ phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56; Điều 57; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử:

1. Chị Dương Thị Kim Đ được ly hôn Anh Nguyễn Văn Q.

2. Về con chung: Giao cho Chị Dương Thị Kim Đ trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thu Quỳnh, sinh ngày 10/02/2010 (hiện nay đang ở cùng chị Đ). Anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Không ai được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về tài sản chung; vay nợ; công sức; đất canh tác: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Dương Thị Kim Đ phải chịu 300.000đ, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2017/0009556 ngày 21/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Dương.

Đương sự có mặt quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./ 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2020/HNGĐ-ST ngày 09/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:24/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Dương - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về