Bản án 24/2020/DS-ST ngày 03/03/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C P, TỈNH AN GIANG 

BẢN ÁN 24/2020/DS-ST NGÀY 03/03/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN 

Ngày 03 tháng 3 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện CP xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 132/2019/TLST-DS ngày 18 tháng 7 năm 2019 về việc Tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 501/2019/QĐST-DS ngày 21/11/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Phát Tr Thành phố Hồ Chí Minh có trụ sở tại: số 25Bis Nguyễn Thị Minh Khai, phường Bến Ngh, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lý Thanh V, chức vụ:

Chuyên viên xử lý nợ, theo giấy ủy quyền số 228/2019/UQ-HDB ngày 20/6/2019 của Giám đốc Trung tâm xử lý nợ - Ngân hàng TMCP Phát Tr Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.

- Bị đơn: Bà Phan Lê Bảo D, sinh năm 1994 nơi cư trú: ấp Vĩnh H, xã Vĩnh Thạnh Tr, huyện CP, tỉnh An Giang, xin vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Trịnh Đoàn Tuấn L, sinh năm 1978. Trú tại 17/9, đường số 57, phường 14, quận Gò V, thành phố Hồ Chí Minh, theo văn bản ủy quyền ngày 06/01/2020, xin vắng mặt. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thời H KG có trụ sở tại: Tổ 01, ấp Đông Th, xã Thạnh Tr, huyện Tân H, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đặng Huy B, chức vụ: Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thời H KG theo giấy ủy quyền số 22/11/19/UQTH ngày 22/11/2019 của Chủ tịch Hội đồng thành viên công ty, xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 20 tháng 6 năm 2019 của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Phát Tr Thành phố Hồ Chí Minh trình bày:

Ngân hàng TMCP Phát Tr Thành Phố Hồ Chí Minh cho bà Phan Lê Bảo D vay tiền theo hợp đồng tín dụng trung dài hạn số 0432/16/HĐTDTDH-CN/050 ngày 25/8/2016 như sau:

Số tiền vay: 480.000.000đ; thời hạn vay: 36 tháng; ngày nhận nợ 25/8/2016, mục đích vay: Mua máy gặt đập liên hợp.

Tài sản thế chấp gồm: máy gặt đập liên hợp hiệu YANMAR, kiểu máy AW82V theo hợp đồng thế chấp số 0266/16/HĐBĐ-SP/050 ngày 25/08/2016.

Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thời H KG (sau đây gọi là công ty Thời H KG) có cam kết đồng trả nợ.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bà D đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi đến hạn như thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ mà hai bên đã ký kết, mặc dù ngân hàng đã nhiều lần đốn đốc, mời làm việc yêu cầu trả nợ nhưng bà D vẫn không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán cho ngân hàng. Tạm tính đến ngày 20/6/2019 tổng số tiền mà bà D còn nợ ngân hàng Phát Tr Thành phố Hồ Chí Minh là 281.654.529 đồng, trong đó nợ gốc 240.000.000 đồng, lãi trong hạn 21.625.880, lãi quá hạn 20.028.649 đồng.

Ngân hàng Phát Tr Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu bà D trả tiền vốn vay và lãi tính đến ngày 20/6/2019: 281.654.000 đồng và các tiền lãi phát sinh đến khi thanh toán xong nợ.

Trường hợp bà D không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng Phát Tr Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu Công ty Thời H trả nợ theo cam kết ngày 25/8/2016. Bà D và Công ty Thời H không trả nợ thì Ngân hàng Phát Tr Thành phố Hồ Chí Minh có quyền ưu tiên yêu cầu cơ quan thẩm quyền phát mãi tài sản theo hợp đồng thế chấp. Nếu không đủ thanh toán thì Ngân hàng Phát Tr Thành phố Hồ Chí Minh có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản khác thuộc quyền sở hữu, sử dụng của bà D, Công ty Thời H để thu hồi nợ.

Tờ tường trình ngày 13/11/2019 bị đơn bà Phan Lê Bảo D trình bày: Năm 2016, bà có đăng ký mua giùm máy gặt đập liên hợp cho ông Đặng Bá L ngụ ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang nhưng gia đình bà thấy ông Lộc làm ăn không hiệu quả nên không cho bà tiếp tục ký các giấy tờ nhận máy và nhận nợ với ngân hàng Phát Tr thành phố Hồ Chí Minh chi nhánh Cần Thơ. Bà không hiểu vì sao mà phía ngân hàng vẫn ủy nhiệm chi cho ông L, trong khi đó bà chưa ký nhận nợ gì. Khi đó ông Lộc vẫn đóng vốn gốc và lãi hàng năm cho ngân hàng. Vào năm 2018 ông Lộc không còn khả năng trả lãi cho Ngân hàng Phát Tr Thành phố Hồ Chí Minh thì ngân hàng kiện bà nợ xấu, thiết nghĩ bà không ký nhận nợ hoặc các chứng từ thế chấp từ ngân hàng. Về phía ngân hàng đã cam kết với ông L mua bán máy khống hướng hóa đơn thuế giá trị gia tăng. Nếu bà có ký giấy nhận nợ của Ngân hàng Phát Tr Thành phố Hồ Chí Minh thì bà sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật nhà nước.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thời H KG do ông Đặng Huy B đại diện ủy quyền trình bày: Công ty Thời H KG có bán 01 máy gặt đập liên hợp cho bà Phan Lê Bảo D và có bảo lãnh cho bà D vay tiền của Ngân hàng Phát Tr Thành phố Hồ Chí Minh chi nhánh Cần Thơ. Hiện tại công ty đã thu hồi máy gặt đập liên hợp của bà D, có báo cho ngân hàng và bà D đến để thương lượng giải quyết nhưng cả hai bên không đồng ý giải quyết (cho bán tài sản để trừ nợ). Công ty sẽ đồng ý thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình khi tài sản đã thanh lý xong mà vẫn còn nợ ngân hàng.

Tại phiên tòa, đại diện Ngân hàng giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn, đại diện theo ủy quyền của bị đơn, đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn xin vắng mặt xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà D, ông L là đại diện theo ủy quyền của bà D,ông Bình là đại diện ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng có đơn xin vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà D, ông L, ông Bình theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1] Ngân hàng thương mại cổ phần Phát Tr Thành phố Hồ Chí Minh và bà Phan Lê Bảo D có ký hợp đồng tín dụng trung dài hạn như sau: Hợp đồng tín dụng số 0432/16/HĐTDTDH-CN050 ngày 25/8/2016 bà D vay 480.000.000 đồng, thời hạn vay là 36 tháng, mục đích vay mua máy gặt đập liên hợp. Sau khi nhận tiền vay, bà D trả vốn 240.000.000 đồng và một phần lãi theo hợp đồng, còn nợ vốn 240.000.000 đồng và lãi chưa thanh toán cho ngân hàng, đến nay đã chuyển nợ quá hạn.

Đối với yêu cầu trong đơn xin xét xử vắng mặt của ông L đại diện theo ủy quyền của bị đơn có nội dung: Yêu cầu hoãn phiên tòa để triệu tập người có liên quan ông Ngô Ngọc S là nhân viên Ngân hàng trực tiếp thẩm định hồ sơ và ông Đặng Bá L là đại diện của công ty Thời H KG. Xét, ông S và ông L đã có lời khai trong hồ sơ và có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử là phù hợp với quy định của pháp luật. Đồng thời, ông L còn yêu cầu giám định chữ ký của bà Phan Lê Bảo D trong hồ sơ vay tại Ngân hàng và trong hồ sơ mua bán máy với công ty Thời H KG. Xét yêu cầu này Hội đồng xát xử không chấp nhận, bởi lẻ bà D đã thừa nhận có ký một vài tài liệu trong hồ sơ vay, ký đứng tên mua máy, đây là tình tiết đương sự đã thừa nhận nên không cần thiết phải giám định để chứng minh và phù hợp với quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2.2] Xét hợp đồng tín dụng trung dài hạn số 0432/16/HĐTDTDH-CN050 ngày 25/8/2016 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Phát Tr Thành phố Hồ Chí Minh và bà D được xác lập trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận phù hợp với quy định tại Điều 116, Điều 463 và Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015 nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Theo đó, bà D có vay 480.000.000đ thời hạn vay 36 tháng, trả vốn và lãi theo định kỳ ghi trong Khế ước nhận tiền là 06 tháng một lần mỗi lần 80.000.000đ nhưng bà D chỉ trả được 03 kỳ với số tiền 240.000.000đ rồi ngưng cho đến nay. Bà D không trả tiền vay theo đúng thời hạn nên Ngân hàng thương mại cổ phần Phát Tr Thành phố Hồ Chí Minh khởi kiện yêu cầu trả tiền vốn vay còn lại 240.000.000đ và tiền lãi là đúng với quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015 nên được chấp nhận.

[2.3] Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì Tổ chức tín dụng được thực hiện lãi suất thỏa thuận đối với khách hàng vay.

Hợp đồng tín dụng và Khế ước nhận tiền các bên thỏa thuận mức lãi suất trong hạn tại thời điểm vay là 13,5%/năm, được điều chỉnh 03 tháng/lần và lãi quá hạn là 150% lãi suất trong hạn, trả lãi vào định kỳ 03 tháng một lần. Bà D không trả tiền vốn và lãi vay đúng hạn nên Ngân hàng đã tính lãi suất quá hạn của hợp đồng tín dụng số 0432/16/HĐTDTDH-CN050 từ ngày 27/02/2017. Thỏa thuận về tiền lãi vay, lãi phạt quá hạn tại Điều 2 và phạt chậm trả lãi tại Điều 4 của Hợp đồng tín dụng là phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự nên được chấp nhận.

Tiền lãi được tính như sau:

+ Tiền lãi trong hạn từ ngày 25/5/2018 đến ngày 26/8/2019: 23.561.436đ.

+ Lãi quá hạn từ ngày 27/2/2017 đến ngày xét xử 03/3/2020 là 53.719.857đ.

Cộng lãi: 77.281.293đ.

Như vậy, bà D có nghĩa vụ trả Ngân hàng thương mại cổ phần Phát TrThành phố Hồ Chí Minh tiền vốn vay 240.000.000đ và tiền lãi 77.281.293đ, tổng cộng 317.281.293đ.

[2.4] Để đảm bảo khoản tiền vay, bà D đã ký với Ngân hàng thương mại cổ phần Phát TrThành phố Hồ Chí Minh hợp đồng thế chấp máy móc, thiết bị/phương tiện vận tải số 0266/16/HĐBĐ-SP/050 ngày 25/8/2016 thế chấp máy gặt đập liên hợp nhãn hiệu YAMAR kiểu máy AW82V thuộc quyền sở hữu của bà D. Hợp đồng thế chấp tài sản có đăng ký giao dịch bảo đảm tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản tại TP.Hồ Chí Minh theo giấy chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 25/8/2016 và ngày 25/8/2016 là đúng theo quy định tại Điều 323 Bộ luật dân sự năm 2015. Do đó, tiếp tục duy trì hợp đồng thế chấp tài sản nêu trên để đảm bảo thi hành án. Ngân hàng thương mại cổ phần Phát TrThành phố Hồ Chí Minh có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp để đảm bảo thi hành án.

[2.5] Bên cạnh hợp đồng thế chấp tài sản, Công ty Thời H KG là doanh nghiệp bán máy gặt đập liên hợp cho bà D, còn đứng ra bảo lãnh tiền vay của bà D bằng Cam kết đồng trả nợ ngày 25/8/2016. Theo nội dung Cam kết đồng trả nợ, Công ty Thời H KG đồng ý trả nợ thay cho bà D khi bà D không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ của hai hợp đồng tín dụng. Công ty Thời H bảo lãnh trả nợ thay toàn bộ nghĩa vụ của bà D theo hợp đồng tín dụng. Do đó, Ngân hàng yêu cầu Công ty Thời H KG có nghĩa vụ trả nợ thay cho bà D trong trường hợp bà D không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ tiền vay là có căn cứ nên được chấp nhận.

[2.6] Bà D cho rằng bà ký giấy tờ để mua giùm máy gặt liên hợp cho ông Đặng Bá Lộc, đây là quan hệ hợp đồng dân sự giữa bà D và ông Lộc cũng như liên quan đến công ty Thời H KG (nếu có) sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác nếu các bên có yêu cầu.

[2.7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Ngân hàng thương mại cổ phần Phát TrThành phố Hồ CHí Minh không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 147, Điều 266, Điều 273 và Điều 278 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 116, Điều 317, Điều 319, Điều 323, khoản 1 Điều 335, Điều 336, Điều 463, Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Phát TrThành phố Hồ Chí Minh.

Buộc bà Phan Lê Bảo D có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Phát Tr Thành phố Hố Chí Minh vốn vay 240.000.000đ (Hai trăm bốn mươi triệu đồng) và tiền lãi 77.281.293đ (Bảy mươi bảy triệu hai trăm tám mươi mốt nghìn hai trăm chín mươi ba đồng) , tổng cộng 317.281.293đ (Ba trăm mười bảy triệu hai trăm tám mươi mốt nghìn hai trăm chín mươi ba đồng).

Bà D còn phải tiếp tục chịu tiền lãi theo lãi suất thỏa thuận của hợp đồng tín dụng trung dài hạn số 0432/16/HĐTDTDH-CN050 ngày 25/8/2016 cho đến khi thanh toán xong số tiền trên.

Trong trường hợp bà D không trả số tiền trên, thì Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thời H KG có nghĩa vụ trả thay toàn bộ số tiền vốn, lãi và kể cả lãi phát sinh cho Ngân hàng thương mại cổ phần Phát TrThành phố Hồ Chí Minh.

Tiếp tục duy trì hợp đồng thế chấp máy móc, thiết bị/phương tiện vận tải số 0266/16/HĐBĐ-SP/050 ngày 25/8/2016 để đảm bảo thi hành án.

Ngân hàng thương mại cổ phần Phát Tr Thành phố Hồ Chí Minh có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý máy gặt đập liên hợp nhãn hiệu YANMAR kiểu máy AW82V là tài sản bà D thế chấp để thi hành án.

Bà Phan Lê Bảo D phải chịu 15.864.000đ (Mười lăm triệu tám trăm sáu mươi bốn nghì đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại Ngân hàng thương mại cổ phần Phát Tr Thành phố Hồ Chí Minh 7.042.000 (Bảy triệu không trăm bốn mươi hai nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001535 ngày 18/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện CP. Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

377
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2020/DS-ST ngày 03/03/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:24/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:03/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về