TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 24/2020/DSPT NGÀY 05/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 05/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 14/2019/TLPT-DS ngày 21/01/2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 12/2018/DSST ngày 29/11/2018 của Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đắk Nông bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 14/2019/QĐ-PT ngày 11/3/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 50/2019/QĐPT ngày 21/3/2019; Quyết định Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm số 11/2019/QĐPT ngày 17/4/2019; Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án số 09/2019/QĐPT ngày 06/6/2019; Thông báo về việc mở lại phiên tòa dân sự phúc thẩm số 142/TB-TA ngày 07/6/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 59/2019/QĐPT ngày 27/6/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 64/2019/QĐPT ngày 04/7/2019; Quyết định Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm số 15/2019/QĐPT ngày 04/8/2019; Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án số 12/2019/QĐPT ngày 23/8/2019; Quyết định Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm số 19/2019/QĐPT ngày 24/10/2019; Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án số 15/2019/QĐPT ngày 25/10/2019; Thông báo về việc mở lại phiên tòa phúc thẩm số 141/TB-TA ngày 18/11/2019; Quyết định tạm ngưng phiên tòa số 07/2019/QĐPT ngày 28/11/2019; Quyết định Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm số 25/2019/QĐPT ngày 27/12/2019; Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án số 01/2019/QĐPT ngày 10/02/2019; Thông báo về việc mở lại phiên tòa phúc thẩm số 142/TB-TA ngày 21/02/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2020/QĐ-PT ngày 06/3/2020; Thông báo về việc thay đổi lịch xét xử số 01/TB-TA ngày 10/3/2020; Thông báo về việc thay đổi lịch xét xử số 02/TB- TA ngày 10/4/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2020/QĐ-PT ngày 12/5/2020 đối với các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng N;
Người đại diện theo pháp luật của Ngân hàng N - ông Trịnh Ngọc K – chức vụ: Chủ tịch hội đồng thành viên;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Ngô Quang H – Chức vụ Giám đốc Phòng giao dịch Đ, thuộc chi nhánh Ngân hàng N tỉnh Đắk Nông – Có mặt.
Địa chỉ: Thôn Q, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
Bị đơn: Ông Vũ Văn X, sinh năm 1982; địa chỉ: Thôn 3, xã Đ1, huyện Đ2, tỉnh Đắk Nông – Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Vũ Công C, sinh năm 1969 – Có mặt.
- Bà Hà Thị T, sinh năm 1962 – Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Bà Đoàn Thị H, sinh năm 1939 – Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt. Cùng địa chỉ: Thôn 3, xã Đ1, huyện Đ2, tỉnh Đắk Nông.
Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho ông Vũ Văn X và ông Vũ Công C: Luật sư Hoàng Văn Q – Văn phòng luật sư H, đoàn luật sư thành phố Hà Nội – Có mặt.
Ông Lê Đình H, sinh năm 1964; địa chỉ: Tổ dân phố 6, thị trấn K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Có mặt.
Người kháng cáo: Bị đơn ông Vũ Văn X và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Vũ Công C, bà Hà Thị T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn trình bày :
Ngày 24/8/2005, Ngân hàng N – Phòng giao dịch Đ (gọi tắt là Ngân hàng) và ông Vũ Văn X ký Hợp đồng tín dụng số D362/05. Nội dung hợp đồng: ông X vay Ngân hàng số tiền 100.000.000 đồng, lãi suất 1,2% tháng, lãi suất quá hạn bằng 150% của lãi suất trong hạn, thời hạn vay 36 tháng, trả gốc và lãi theo định kỳ hàng năm cụ thể; ngày 20/5/2006 trả nợ gốc số tiền 25.000.000 đồng và lãi; ngày 20/5/2007 trả nợ gốc số tiền 30.000.000 đồng và lãi; ngày 20/5/2008 trả nợ gốc số tiền 45.000.000 đồng và lãi. Theo giấy ủy quyền của bà Đoàn Thị H, ngày 23/8/2005 ông X thế chấp quyền sử dụng đất thửa đất số 22, tờ bản đồ 23, diện tích 6.560 m2, đã được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U013903 ngày 31/10/2002 mang tên bà Đoàn Thị H để đảm bảo cho số tiền vay Ngân hàng 100.000.000 đồng, đã đăng ký thế chấp tại Ủy ban nhân dân xã Đ1, huyện Đ2. Đến kỳ hạn, ngày 20/5/2006, ông X chưa trả được nên đã làm đơn gia hạn và được Ngân hàng đồng ý gia hạn đến 20/5/2007.
Ngày 20/5/2007, ông Vũ Văn X mang hợp đồng D06/04 vay ngày 17/3/2004 đã được tất toán đến Ngân hàng nhận lại tài sản thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U013903. Do có sự nhầm lẫn nên cán bộ Ngân hàng đã trả lại tài sản thế chấp theo hợp đồng tín dụng số D362/05 cho ông X. Sau đó Ngân hàng phát hiện có sự nhầm lẫn nên ngày hôm sau đã báo cho gia đình ông X xin nhận lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng gia đình ông X không đồng ý. Kể từ ngày vay đến nay ông X chưa trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng, mặc dù Ngân hàng đã thương lượng và đòi nợ nhiều lần nhưng ông X vẫn không trả nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông X phải trả cho Ngân hàng theo hợp đồng tín dụng số D362/05 ngày 24/8/2005 cả gốc và lãi đến thời điểm xét xử là 373.938.000 đồng; trong đó nợ gốc 100.000.000 đồng; nợ lãi trong hạn 33.644.000 đồng; nợ lãi quá hạn là 240.294.000 đồng và tiếp tục chịu lãi cho đến khi trả xong nợ.
Đối với hợp đồng thế chấp, do lỗi của cán bộ Ngân hàng nhầm lẫn trả lại tài sản thế chấp, bà H hiện nay đã định đoạt toàn bộ tài sản này cho người khác nên Ngân hàng không yêu cầu xử lý.
Bị đơn ông Vũ Văn X trình bày:
Ông X thừa nhận năm 2005 vay Ngân hàng số tiền 100.000.000 đồng theo hợp đồng số D362/05 và có thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U013903 mang tên bà Đoàn Thị H và thừa nhận từ ngày vay đến nay chưa trả nợ Ngân hàng. Tuy nhiên ông X cho rằng số tiền 100.000.000 đồng ông vay hộ ông Vũ Công C, ông C và bà T đã trả hết số tiền vay cho Ngân hàng nên Ngân hàng mới trả lại tài sản thế chấp cho bà Đoàn Thị H nay Ngân hàng khởi kiện thực hiện hợp đồng tín dụng D362/05 ngày 24/8/2005 ông X không chấp nhận.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vũ Công C và bà Hà Thị T trình bày: Năm 2005 gia đình ông C nhờ em trai là Vũ Văn X vay hộ số tiền 100.000.000 đồng, đến hạn gia đình ông đã trả nợ. Sau khi trả nợ xong Ngân hàng mới trả lại tài sản thế chấp cho ông X. Nay Ngân hàng khởi kiện là không có căn cứ và đề nghị áp dụng thời hiệu để giải quyết.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đoàn Thị H trình bày: Bà đã nhận lại tài sản thế chấp, hiện bà đã già yếu nên không thể tham gia tố tụng, bà đề nghị giải quyết vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Đình H trình bày : Ông H là cán bộ kho quỹ của phòng giao dịch Đ. Ngày 17/3/2004 ông X, bà H có vay Ngân hàng số tiền 100.000.000 đồng, theo hợp đồng tín dụng D06/04, thời hạn trả nợ ngày 14/3/2006, khi vay có thế chấp chứng nhận quyền sử dụng đất số U013903 mang tên bà Đoàn Thị H. Ngày 23/8/2005 bà H đã trả hết nợ hợp đồng D06/04. Ngày 24/8/2005 ông X tiếp tục vay số tiền 100.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số D362/05, hạn cuối cùng ngày 20/8/2008.
Ngày 05/7/2007, ông X mang hợp đồng D06/04 đến yêu cầu ông H trả tài sản thế chấp. Do sơ xuất nên ông H không biết ông X vay tiếp số tiền 100.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số D362/05 nên khi thấy hợp đồng D06/04 ghi đã tất toán, ông H trả lại tài sản thế chấp cho ông X và ông X đã ký sổ nhận. Sau khi trả xong thì ông H phát hiện có nhầm lẫn nên báo lãnh đạo và ngày hôm sau ông H cùng cán bộ đến gia đình ông X xin lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã trả nhầm, hai bên thương lượng nhiều lần nhưng hai bên không chấp nhận. Ông H yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại bản án sơ thẩm số 20/2018/DS-ST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đ đã quyết định:
Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 161, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 471, Điều 474, Điều 476, Điều 342, Điều 343, Điều 344, Điều 356 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Án lệ số 08/2016 Thông qua ngày 17/10/2016 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết 326/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án, tuyên xử :
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N – Phòng giao dịch Đ, thuộc chi nhánh Ngân hàng N tỉnh Đắk Nông đối với ông Vũ Văn X: Buộc ông X phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng N - Phòng giao dịch Đ, thuộc chi nhánh Ngân hàng N tỉnh Đắk Nông theo hợp đồng tín dụng số D632/05 ngày 24/8/2005 với số tiền là 373.938.000 đồng trong đó nợ gốc 100.000.000 đồng; nợ lãi trong hạn 33.644.000 đồng; nợ lãi quá hạn là 240.294.000 đồng và tiếp tục chịu lãi suất cho đến khi trả xong nợ.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
Ghi nhận việc Ngân hàng N – Phòng giao dịch Đ, thuộc chi nhánh Ngân hàng N tỉnh Đắk Nông đã trả tài sản thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất U013903 mang tên bà Đoàn Thị H cho ông Vũ Văn X.
Về chi phí tố tụng: Ông Vũ Văn X phải chịu số tiền 5.000.000 đồng chi phí giám định, được trừ vào số tiền 5.000.000 đồng đã nộp.
Về án phí: Ông Vũ Văn X phải nộp 18.696.900 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ngoài ra sơ thẩm còn thông báo quyền kháng cáo đối với các đương sự. Ngày 08/12/2018, bị đơn ông Vũ Văn X, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Vũ Công C và bà Hà Thị T kháng cáo bản án số 20/2018/DSST ngày 29/11/2018 với các nội dung: ông X, ông C và bà T thừa nhận: ngày 24/8/2005 có vay Ngân hàng N số tiền 100.000.000 đồng nhưng vào ngày 24/7/2007, ông Vũ Công C đã trả toàn bộ nợ vay cả gốc, lãi cho Ngân hàng nên Ngân hàng mới trả lại tài sản đã thế chấp cho ông. Đến năm 2015, Ngân hàng khởi kiện, Toà án nhân dân huyện Đ đã thụ lý giải quyết nhưng ông X không biết kết quả giải quyết. Năm 2017, Ngân hàng khởi kiện lại là đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 429 Bộ luật dân sự, thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng là 3 năm, theo Mục 7 của Công văn số 152/TANDTC ngày 19/7/2018 của Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân huyện Đ không áp dụng thời hiệu trong vụ án này là vi phạm pháp luật, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn luật sư Hoàng Văn Q đề nghị: Sau khi phân tích chứng cứ, các quy định của pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3, Điều 308 Bộ luật dân sự hủy Bản án sơ thẩm số 20/2018/DS-ST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đ để giải quyết lại vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông tham gia phiên toà phát biểu ý kiến với các nội dung: Đơn kháng cáo của bị đơn ông Vũ Văn X, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Vũ Công C và bà Hà Thị T kháng cáo làm trong hạn và đóng tạm ứng án phí theo đúng quy định pháp luật.
Việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm là đúng quy định pháp luật.
Về nội dung: Sau khi phân tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ được thẩm tra và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Vũ Văn X, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Vũ Công C và bà Hà Thị T; tuyên giữ nguyên bản án sơ thẩm số 20/2018/DS-ST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đ.
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến trình bày và kết quả tranh tụng của các đương sự, Kiểm sát viên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia phiên tòa phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn ông Vũ Văn X, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Vũ Công C và bà Hà Thị T kháng cáo thực hiện đúng quy định của pháp luật, đã đóng tạm ứng án phí là đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Vũ Văn X, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Vũ Công C và bà Hà Thị T, Hội đồng xét xử xét thấy: Ngày 24/8/2005, ông Vũ Văn X ký kết hợp đồng tín dụng số D362/05 với Ngân hàng N - Phòng giao dịch Đ để vay số tiền 100.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng. Được sự ủy quyền của bà Đoàn Thị H, ông Xũ Văn X đã thế chấp cho Ngân hàng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 22, tờ bản đồ số 23, diện tích 6.560m2, đất đã được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U013903 ngày 31/10/2002 cho hộ ông Vũ Đức T. Ngày 03/7/2007, Ngân hàng N đã trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U013903 cho ông X và cho rằng: do sự nhầm lẫn nên cán bộ kho quỹ đã trả nhầm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông X theo Hợp đồng tín dụng số D06/04 mà ông X vay trước đó đã được tất toán; đối với số tiền ông X vay theo Hợp đồng tín dụng số D362/05 thì ông X chưa trả bất kỳ một khoản nào cho Ngân hàng.
Ông X cho rằng anh trai ông là ông Vũ Công C đã trả cho Ngân hàng toàn bộ số tiền gốc và lãi theo Hợp đồng tín dụng số D362/05 ngày 24/8/2005, sau đó Ngân hàng mới trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông. Tuy nhiên, tại trang 25, sổ bàn giao tài sản của ngân hàng N – phòng Giao dịch Đ thể hiện: “ngày 03/7/2007, ông Vũ Văn X đã nhận sổ đỏ do trả hết nợ theo khế ước D06/04 ngày 23/8/2005”. Ngoài ra, tại giai đoạn sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, ông X không đưa ra được tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh về việc đã trả số tiền gốc và lãi theo Hợp đồng tín dụng số D362/05 cho Ngân hàng. Do đó, Tòa án giải quyết vụ án theo những chứng cứ đã thu thập được có lưu trong hồ sơ vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông Vũ Văn X phải trả số tiền là 373.938.000 đồng trong đó nợ gốc 100.000.000 đồng; nợ lãi trong hạn 33.644.000 đồng; nợ lãi quá hạn là 240.294.000 đồng và tiếp tục chịu lãi suất cho đến khi trả xong nợ cho Ngân hàng N là có căn cứ.
Đối với nội dung kháng cáo cho rằng Tòa án nhân dân huyện Đ không áp dụng thời hiệu trong vụ án này là vi phạm pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy: Ngân hàng N tranh chấp hợp đồng tín dụng, yêu cầu thanh toán tiền vay và lãi suất theo hợp đồng là tranh chấp về đòi lại tài sản; căn cứ quy định tại Điều 2 Nghị Quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về thi hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 3 Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, đã được sửa đổi bổ sung năm 2011 “Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu … thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện”. Hơn nữa, tại khoản 6 Điều 160 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Thời hiệu khởi kiện dân sự không áp dụng trong các trường hợp sau đây: 1. Yêu cầu hoàn trả tài sản thuộc sở hữu nhà nước”. Ngân hàng N là Ngân hàng 100% vốn nhà nước. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với vụ án này là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Xét quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông tại phiên toà là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận; quan điểm đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[4]. Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Vũ Văn X, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Vũ Công C và bà Hà Thị T, giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 12/2018/DSST ngày 29/11/2018 của Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
[5]. Các quyết định khác của bản án không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn ông Vũ Văn X, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Vũ Công C và bà Hà Thị T mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí, được khấu trừ số tiền 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Vũ Văn X, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Vũ Công C và bà Hà Thị T, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 12/2018/DSST ngày 29/11/2018 của Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
2. Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 161, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 3 Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011; khoản 6 Điều 160, Điều 342, Điều 343, Điều 344, Điều 356, Điều 471, Điều 474, Điều 476 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 2 Nghị Quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về thi hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Án lệ số 08/2016 thông qua ngày 17/10/2016 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết 326/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án, tuyên xử :
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N đối với ông Vũ Văn X: Buộc ông X phải có nghĩa vụ trả cho N theo hợp đồng tín dụng số D632/05 ngày 24/8/2005 với số tiền là 373.938.000 đồng, trong đó nợ gốc 100.000.000 đồng; nợ lãi trong hạn 33.644.000 đồng; nợ lãi quá hạn là 240.294.000 đồng và tiếp tục chịu lãi suất cho đến khi trả xong nợ.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
Ghi nhận việc Phòng giao dịch Đ - Ngân hàng N, chi nhánh tỉnh Đắk Nông đã trả tài sản thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất U013903 cho ông Vũ Văn X.
3. Về chi phí tố tụng: Ông Vũ Văn X phải chịu số tiền 10.000.000 đồng chi phí giám định, được trừ vào số tiền 10.000.000 đồng đã nộp.
4. Về án phí:
Ông Vũ Văn X phải nộp 18.696.900 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Vũ Văn X, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Vũ Công C và bà Hà Thị T mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí, được khấu trừ số tiền 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 24/2020/DSPT ngày 05/06/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 24/2020/DSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/06/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về