Bản án 24/2019/HS-ST ngày 24/12/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 24/2019/HS-ST NGÀY 24/12/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên, mở phiên tòa công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 17/2019/HSST ngày 08 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 75/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Võ Thị Mỹ H, sinh ngày: 20/12/1991; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Thôn N, xã S, huyện S, tỉnh Phú Yên; giới tính: Nữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; con ông Võ Văn Q (chết) và bà Nguyễn Thị L (chết); có chồng Lê Đình C, sinh năm 1991 (đã ly hôn) và 01 con, sinh ngày 06/12/2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày: 21/02/2019; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Võ Thị Mỹ H:

1. Theo yêu cầu của bị cáo: Ông Nguyễn Hoài Phong – Luật sư, Chi nhánh Văn phòng Luật sư Bảo Hiến, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; địa chỉ: Số 26/29 Cao Bá Quát, phường Phước Tân, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Theo yêu cầu của Tòa án: Bà Huỳnh Thị Tâm – Luật sư, Văn phòng Luật sư Huy Hoàng, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên; địa chỉ: Số 01/1 Trần Cao Vân, phường 4, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên; có mặt nhưng bị cáo từ chối, nên chấm dứt việc chỉ định người bào chữa.

- Các bị hại:

1. Lê Thị Ngọc T, sinh năm 1985; nơi cư trú: Số , phường , thành phố T, tỉnh Phú Yên; có mặt.

2. Lê Thị Ngọc T, sinh năm 1988; nơi cư trú: số , phường , thành phố T, tỉnh Phú Yên; có mặt.

3. Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 1985; nơi cư trú:phường, thành phố T, tỉnh Phú Yên; có mặt.

4. Cao Thị Út H, sinh năm 1992; nơi cư trú: khu Bích Hợp, phường , thành phố T, tỉnh Phú Yên; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

5. Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm 1995; nơi cư trú: Khu phố , phường , thành phố T, tỉnh Phú Yên; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

6. Hoàng Thị N, sinh năm 1990; nơi cư trú: Khu phố, phường , thành phố T, tỉnh Phú Yên; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

7. Nguyễn Thị Diễm P, sinh năm 1993; nơi cư trú: huyện S, tỉnh Phú Yên; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

8. Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1988; nơi cư trú: thị trấn C, huyện S, tỉnh Phú Yên; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

9. Phan Hữu H, sinh năm 1995; nơi cư trú: Khu phố T, thị trấn C, huyện S, tỉnh Phú Yên; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

10. Lê Thị Ngọc T, sinh năm 1990; nơi cư trú: Khu phố M, thị trấn P, huyện T, tỉnh Phú Yên; có mặt.

11. Nguyễn Trình Đ, sinh năm 1990; nơi cư trú: Thôn P, xã H, huyện P , tỉnh Phú Yên; có mặt.

12. Phạm Thị L, sinh năm 1983; nơi cư trú: Thôn Đ, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

13. Phan Thị Thảo N, sinh năm 1990; nơi cư trú: phường N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Thị Thu N, sinh năm 1986; nơi cư trú: phường 6, thành phố T, tỉnh Phú Yên; có mặt.

2. Huỳnh Trọng K, sinh năm 1991; nơi cư trú: phường 6, thành phố T, tỉnh Phú Yên; có mặt.

3. Huỳnh Hoành Hạnh H, sinh năm 1995; nơi cư trú: phường 6, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

4. Mai Thị Thu T, sinh năm 1988; nơi cư trú: Khu phố L, xã B, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

5. Trần Nguyễn Minh L, sinh năm 1983; nơi cư trú: Khu phố N, phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên; có mặt.

6. Nguyễn Thị Lan P, sinh năm 1982; nơi cư trú: phường 5, thành phố T, tỉnh Phú Yên; có mặt.

7. Lê Thị Hoài T, sinh năm 1978; nơi cư trú: phường 3, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

8. Trần Thị Thu H, sinh năm 1985; nơi cư trú: phường 5, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

9. Nguyễn Thị T, sinh năm 1991; nơi cư trú: phường 6, thành phố T, tỉnh Phú Yên; có mặt.

10. Võ Thị P, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn L, xã B, thành phố T, tỉnh Phú Yên; có mặt.

11. Trương Thị Thu T, sinh năm 1996; nơi cư trú: phường 4, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

12. Nguyễn Thị Hoàng T, sinh năm 1994; nơi cư trú: phường 4, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

13. Bùi Thị Thu C, sinh năm 1977; nơi cư trú: Thôn T, xã S, huyện S, tỉnh Phú Yên; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

14. Lê Thị Huỳnh Thanh B, sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn N, xã S, huyện S, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

15. Võ Hùng C, sinh năm 1985; nơi cư trú: Thôn N, xã S, huyện S, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

16. Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1986; nơi cư trú: Khu phố T, thị trấn C, huyện S, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

17. Cao Đắc C, sinh năm 1992; nơi cư trú: Thôn T, xã S, huyện S, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

18. Huỳnh Thị Hồng L, sinh năm 1995; nơi cư trú: Thôn P, xã A, huyện T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

19. Lê Đình C, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn L, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

20. Lê Thị Kim C, sinh năm 1956; nơi cư trú: Thôn L, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

21. Nguyễn Thị Mỹ D, sinh năm 1981; nơi cư trú: Thôn P, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên; có mặt.

22. Phạm Hùng C, sinh năm 1992; nơi cư trú: xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên; có mặt.

23. Huỳnh Huy C, sinh năm 1995; nơi cư trú: Thôn Đ, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

24. Ksor L, sinh năm 1991; nơi cư trú: thị trấn H, huyện S, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

25. Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1983; nơi cư trú: phường N, thành phố Q, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

26. Nguyễn Minh V, sinh năm 1983; nơi cư trú: phường N, thành phố Q, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

27. Bùi Thị Cẩm N, sinh năm 1989; nơi cư trú:phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

28. Phạm Thị Hồng D, sinh năm 1992; nơi cư trú: thị trấn P, huyện P, tỉnh Gia Lai; vắng mặt.

29. Nguyễn Đức L, sinh năm 1996; nơi cư trú: Thông Q, xã Đ, huyện T, tỉnh Bình Thuận; vắng mặt.

30. Huỳnh Ngọc T, sinh năm 1994; nơi cư trú: Thôn C, xã A, thành phố T, tỉnh Phú Yên ;có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong tháng 04/2017, Võ Thị Mỹ H nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đưa ra thông tin gian dối đang mua bán tổ yến lợi nhuận cao, có nhiều đơn đặt hàng, cần vốn để kinh doanh. H rủ nhiều người góp tiền mua bán tổ yến, hứa sẽ trả tiền góp và tiền lợi nhuận đầy đủ. Thực tế, H không mua bán tổ yến nhưng để tạo lòng tin, H tự đặt ra đơn hàng và mức tiền lời rồi rủ người khác góp tiền, một số lần đầu H trả đầy đủ tiền góp và tiền lời. Tin lời H, từ tháng 04/2017 đến 06/2018, có 13 người đã đưa tiền cho H tổng số 4.643.000.000 đồng, H nhận tiền nhưng không mua bán tổ yến, không trả tiền góp và lợi nhuận như đã hứa mà chiếm đoạt, cụ thể:

Vụ thứ 1: Khoảng tháng 04/2017, H gọi điện thoại, nhắn tin nói với chị Lê Thị Ngọc T có nhiều đơn hàng nhưng thiếu vốn và rủ T góp tiền, H hứa sẽ trả đủ tiền góp, lợi nhuận. Những lần đầu, H thông báo đơn hàng số tiền ít, đúng hẹn trả tiền góp và tiền lời đầy đủ. Từ tháng 04/2017 đến tháng 12/2017, chị T đã nhiều lần đưa tiền và chuyển vào tài khoản ngân hàng Agribank số 4605205166687 tên Võ Thị Mỹ H tổng số tiền là 218.000.000 đồng. H nhận tiền nhưng không mua bán tổ yến mà chiếm đoạt.

Vụ thứ 2: Tin tưởng H có mua bán tổ yến, chị Lê Thị Ngọc T đã giới thiệu H với hai chị ruột là Lê Thị Ngọc T1 và Lê Thị Ngọc T2. Hạnh cũng nói đang mua bán tổ yến lợi nhuận cao và rủ T1, T2 góp tiền, hứa sẽ trả đủ tiền góp vốn cộng với tiền lợi nhuận. Để T1, T2 tin tưởng, thời gian đầu H trả đầy đủ tiền góp vốn và tiền lợi nhuận như đã hứa, sau đó tiếp tục rủ T1, T2 góp tiền đưa cho H. Từ tháng 06/2017 đến 12/2017, các chị T1 và T2 đồng ý đưa tiền góp vốn, H đã nhờ Huỳnh Ngọc T đến gặp T nhận tiền 08 lần, tổng cộng 1.848.900.000 đồng và gặp T2 nhận 04 lần, tổng cộng 795.000.000 đồng đưa lại cho H. H không sử dụng mua bán tổ yến mà chiếm đoạt. Chị T phát hiện yêu cầu trả tiền thì H trả cho chị T2 52.900.000 đồng.

Vụ thứ 3: Khoảng tháng 9/2017, H gọi điện thoại, nhắn tin cho chị Nguyễn Thị Tuyết N nói đang mua bán tổ yến có lợi nhuận cao và rủ N góp tiền vốn mua bán tổ yến cùng chia lợi nhuận. Lần đầu H nói N góp 6.400.000 đồng, lợi nhuận là 1.400.000 đồng, đúng hẹn H đưa cho N 7.800.000 đồng. Lần thứ hai, H nói N góp 9.600.000 đồng, lợi nhuận là 2.100.000 đồng, đúng hẹn H đưa cho N 11.700.000 đồng. Sau đó, từ ngày 29/12/2017 đến ngày 20/4/2018 N đã 11 lần đưa tiền cho H, trong đó 07 lần đưa trực tiếp 331.000.000 đồng, H nhờ Huỳnh Thị Hồng L nhận 03 lần 70.600.000 đồng và 01 lần chuyển 4.000.000 đồng qua tài khoản ngân hàng BIDV số 59010000611175 tên Võ Thị Mỹ H, tổng số tiền là 405.600.000 đồng. H nhận tiền không sử dụng mua bán tổ yến mà chiếm đoạt. Chị N phát hiện yêu cầu trả lại tiền thì H trả cho N 54.200.000 đồng.

Vụ thứ 4: Khoảng tháng 06/2017, H gọi điện thoại, nhắn tin cho anh Nguyễn Trình Đ nói H đang mua bán tổ yến có lợi nhuận cao và nhiều lần rủ Đ góp tiền mua bán tổ yến, H nói gần tết âm lịch nếu góp tiền mua nhiều đơn hàng sẽ thu được lợi nhuận cao. Tin lời H, trong tháng 01/2018, Đ đã 02 lần đưa tiền cho H tổng cộng 131.000.000 đồng, trong đó H gặp trực tiếp nhận 56.000.000 đồng và nhờ Huỳnh Thị Hồng L nhận đưa lại cho H 75.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền H không sử dụng mua bán tổ yến mà chiếm đoạt. Anh Đ phát hiện yêu cầu trả tiền thì H trả cho Đ 74.450.000 đồng.

Vụ thứ 5: Năm 2017, trong thời gian học việc tại khoa Nội tổng hợp bệnh viên Đa khoa tỉnh Phú Yên, H1 quen biết chị Cao Thị Út H2 là bác sĩ đang công tác tại Khoa, H1 nói với H2 là đang buôn bán tổ yến khắp cả nước, rất nhiều đơn hàng, có đơn hàng vài trăm triệu, có đơn lên đến trên một tỷ đồng, lợi nhuận cao và nhiều lần gọi điện, nhắn tin rủ H2 góp vốn. Lần đầu H1 nói H2 góp 35.000.000 đồng, tiền lợi nhuận là 3.400.000 đồng, đúng hẹn H1 đưa cho H2 38.400.000 đồng. Sau đó từ ngày 23/12/2017 đến ngày 27/5/2018, H1 đã 12 lần đưa tiền cho H1 góp vốn mua bán tổ yến, trong đó 05 lần chuyển 47.300.000 đồng vào các tài khoản ngân hàng BIDV số 59010000611175 và tài khoản ngân hàng Agribank số 4600205263735 tên Võ Thị Mỹ H1; 01 lần chuyển 10.000.000 đồng vào tài khoản ngân hàng BIDV số 59010000517255 tên Huỳnh Thị Hồng L, 03 lần đưa trực tiếp cho H1 52.700.000 đồng và 02 lần đưa 13.000.000 đồng cho Huỳnh Ngọc T, 01 lần đưa 22.000.000 đồng cho Huỳnh Thị Hồng L, tổng số tiền là 145.000.000 đồng. H1 nhận tiền không sử dụng mua bán tổ yến, không trả lại tiền góp và lợi nhuận như đã hứa mà chiếm đoạt.

Vụ thứ 6: Khoảng đầu năm 2018, H1 nói với chị Phan Thị Thảo N đang mua bán tổ yến lợi nhuận cao, có nhiều đơn hàng, hiện đang thiếu vốn nên rủ N góp tiền mua bán tổ yến, H1 sẽ chia lợi nhuận cao. H1 tự đặt giá tiền đơn hàng rồi rủ N chuyển tiền góp vốn. Tin tưởng H, từ ngày 11/01/2018 đến ngày 21/01/2018, N đã 02 lần chuyển cho H số tiền 34.100.000 đồng vào tài khoản ngân hàng BIDV số 59010000611175 tên Võ Thị Mỹ H, một lần gửi 14.000.000 đồng qua dịch vụ phát nhanh tên người nhận là Huỳnh Ngọc T và chuyển 24.000.000 đồng qua tài khoản ngân hàng BIDV số 59010000475849 tên Huỳnh Trọng K, tổng số tiền là 72.100.000 đồng. H1 nhận tiền không sử dụng mua bán tổ yến mà chiếm đoạt. Chị N phát hiện nhiều lần yêu cầu trả tiền thì H1 trả cho chị N 30.000.000đồng.

Vụ thứ 7: Khoảng đầu tháng 2/2018, H1 nhiều lần gọi điện thoại, nhắn tin nói với chị Nguyễn Thị Diễm P là H1 mua bán tổ yến đã lâu, số lượng lớn, lợi nhuận cao, có nhiều khách hàng đặt mua tổ yến nhưng thiếu vốn nên rủ P góp vốn. H1 nói P góp thử một hai đơn hàng nhỏ nếu thấy được thì cùng góp vốn. Lần đầu H1 nói P góp 3.200.000 đồng, tiền lợi nhuận là 600.000 đồng, đúng hẹn H1 đưa cho P 3.800.000 đồng. Tin tưởng H1 buôn bán tổ yến, từ ngày 25/2/2019 đến ngày 20/3/2019, P đã 04 lần chuyển 131.800.000 đồng cho H1 qua các tài khoản ngân hàng BIDV số 59010000611175 và tài khoản ngân hàng Agribank số 4605205166687 tên Võ Thị Mỹ H và một lần chuyển cho H1 9.600.000 đồng vào tài khoản ngân hàng Agribank số 4605220006160 tên Huỳnh Ngọc T, tổng số tiền là 141.400.000 đồng. Sau khi nhận tiền, H1 không sử dụng mua bán tổ yến mà chiếm đoạt. Chị P phát hiện yêu cầu trả tiền thì H1 trả cho P 10.000.000đồng.

Vụ thứ 8: Khoảng tháng 01/2018, H1 nhiều lần gọi điện, nhắn tin rủ chị Nguyễn Thị Kim H góp tiền mua bán tổ yến, H1 hứa sẽ trả tiền góp vốn và tiền lợi nhuận đầy đủ. Sau đó, H1 liên tục thông báo có đơn hàng mới và rủ Kim H góp tiền mua bán tổ yến. Tin lời H1, từ ngày 15/02/2018 đến ngày 25/7/2018, Kim H đã 03 lần chuyển 142.200.000 đồng qua tài khoản ngân hàng Agribank số 4600205263735 tên Võ Thị Mỹ H1 và chuyển 44.000.000 đồng qua tài khoản ngân hàng BIDV số 59010000233126 tên Nguyễn Thị Lan P và gửi 100.000.000 đồng qua dịch vụ xe buýt tuyến Tuy Hòa – Sơn Hòa cho H1, tổng số tiền là 286.200.000 đồng. Sau khi nhận tiền, H1 không sử dụng mua bán tổ yến mà chiếm đoạt. Chị Kim H nhiều lần yêu cầu trả tiền thì H1 trả cho Kim H 7.000.000 đồng.

Vụ thứ 9: Khoảng tháng 02/2018, H gọi điện thoại, nhắn tin rủ chị Phạm Thị L góp tiền mua bán tổ yến, H nói nhờ góp tiền mua bán tổ yến với H mà nhiều người có cuộc sống khá lên và vì thấy L khó khăn nên muốn giúp L kiếm thêm thu nhập. H1 tự đặt ra giá tiền của đơn hàng và rủ L góp tiền. Tin H1 mua bán tổ yến L đồng ý, trong tháng 02 và tháng 03/2018 L đã đưa cho H1 23.000.000 đồng và hai lần chuyển số tiền 98.000.000 đồng vào tài khoản ngân hàng BIDV số 59010000611175 tên Võ Thị Mỹ H1 cho H, tổng số tiền là 121.000.000 đồng. H1 nhận tiền, không sử dụng mua bán tổ yến mà chiếm đoạt. Chị L phát hiện nhiều lần yêu cầu trả tiền thì H1 trả cho L 37.000.000 đồng.

Vụ thứ 10: Khoảng tháng 01/2018, H1 nhiều lần điện thoại, nhắn tin nói với chị Nguyễn Thị Mỹ L đang buôn bán tổ yến có lợi nhuận cao và rủ L góp tiền, hứa sẽ đưa lại tiền vốn góp và tiền lợi nhuận cao. Lần đầu H1 nói L góp đơn hàng 12.000.000 đồng, tiền lợi nhuận là 4.000.000 đồng, đúng hẹn H1 đưa cho chị L 16.000.000 đồng. Sau đó, H1 tiếp tục thông báo có đơn hàng và rủ L góp tiền, L tin tưởng đồng ý, trong tháng 3 và 4/2018 L đã 06 lần chuyển tiền cho H1 vào tài khoản ngân hàng BIDV số 59010000611175 tên Võ Thị Mỹ H1, tổng số tiền là 268.800.000 đồng. H1 nhận tiền không sử dụng mua bán tổ yến mà chiếm đoạt. Chị L nhiều lần yêu cầu trả tiền thì H1 trả cho L 44.000.000 đồng.

Vụ thứ 11: Khoảng tháng 04/2018, H1 gọi điện thoại và gặp nói với chị Hoàng Thị Ngọc là H1 đang mua bán tổ yến lợi nhuận cao, hiện có nhiều đơn đặt hàng nhưng H không đủ tiền nên rủ chị N góp tiền mua bán tổ yến, H1 hứa sẽ trả lại tiền góp và lợi nhuận cao. Lần đầu H1 nói N đưa 6.400.000 đồng, lợi nhuận 2.000.000 đồng, đúng hẹn H1 đưa cho N 8.400.000 đồng. Từ ngày 17/4/2018 đến ngày 27/4/2018 N đã 04 lần chuyển tiền cho H1 vào các tài khoản ngân hàng BIDV số 59010000611175; tài khoản ngân hàng Agribank số 4605205166687 tên Võ Thị Mỹ H1, tổng số tiền là 114.000.000 đồng. H1 nhận tiền, không sử dụng mua bán tổ yến, trả tiền góp vốn, tiền lợi nhuận cho N như đã hứa mà chiếm đoạt.

Vụ thứ 12: Khoảng đầu tháng 06/2018, H1 gọi điện thoại, nhắn tin cho anh Phan Hữu H2 nói đang kinh doanh mua bán tổ yến, lấy từ Nha Trang, Phú Yên giá thấp sau đó bán lại giá cao, nhiều lợi nhuận và rủ H2 góp tiền mua bán tổ yến, hứa sẽ trả đầy đủ tiền góp và tiền lợi nhuận. Tin lời H1, từ ngày 07/6/2018 đến ngày 09/6/2018, H2 04 lần chuyển tiền cho H1 qua các tài khoản ngân hàng BIDV do H1 cung cấp gồm, tài khoản số 4600205266710 tên Lê Thị Ngọc T 35.000.000 đồng; tài khoản số 58110000091975 tên Bùi Thị Cẩm N 25.000.000 đồng và tài khoản số 59010000611175 tên Võ Thị Mỹ H1 16.000.000 đồng. Sau đó, H1 tiếp tục nói dối với H2 là phải chuyển 20.000.000 đồng để H1 nộp vào công ty kinh doanh tổ yến mà H1 có cổ phần để rút ra 120.000.000 đồng tiền ứng trả cho H2, H2 chuyển tiếp vào tài khoản ngân hàng của H1 20.000.000 đồng. Tổng cộng H2 đã chuyển cho H1 là 96.000.000 đồng, sau khi nhận tiền, H1 không sử dụng mua bán tổ yến mà chiếm đoạt.

Tại Bản cáo trạng số 17/CT-VKS-P1 ngày 08/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên đã truy tố bị cáo Võ Thị Mỹ H1 về tội về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điểm a, Khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Võ Thị Mỹ H1 thừa nhận đã chiếm đoạt số tiền 4.643.000.000 đồng của 13 người bị hại như nội dung Cáo trạng đã nêu; tuy nhiên bị cáo cho rằng, số tiền mà 13 người bị hại đưa cho bị cáo đã sử dụng để mua tổ yến của người phụ nữ tên Nương ở thành phố Hồ Chí Minh, về bán lại cho người đàn ông tên Hoàng ở tỉnh Gia Lai, hai người này bị cáo quen trên mạng xã hội, nên không biết rõ họ, địa chỉ; theo bị cáo việc mua bán tổ yến của bị cáo có lãi, nhưng bị cáo lại không giải thích được lý do tại sao không trả tiền cho các bị hại như đã hứa.

Các bị hại đều khai, tình tiết vụ án diễn ra như nội dung bản cáo trạng đã truy tố là đúng; các bị hại đều đề nghị xét xử nghiêm đối với bị cáo và buộc bị cáo bồi thường theo quy định của pháp luật.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trình bày lời luận tội, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; áp dụng khoản Điểm a, Khoản 4 Điều 174; Điểm b, s Khoản 1 Điều 51; Điểm g, Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; phạt bị cáo Võ Thị Mỹ H1 từ 16 đến 17 năm tù và bồi thường số tiền đã chiếm đoạt cho các bị hại.

Luật sư Nguyễn Hoài Phong bào chữa theo yêu cầu của bị cáo vắng mặt, nhưng gửi Luận cứ cho rằng: Quá trình giải quyết tố giác về tội phạm, Cơ quan điều tra đã chấp nhận Luật sư là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác là Võ Thị Mỹ H1. Nhưng đến khi khởi tố vụ án, Cơ quan điều tra lại chấm dứt từ cách người bào chữa cho bị cáo đối với Luật sư, là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nên đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.

Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Trong phần tranh luận Kiểm sát viên không nhất trí với đề nghị của người bào chữa, giữ nguyên lời luận tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Ngày 29/11/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên Quyết định mở phiên tòa sơ thẩm để xét xử vụ án hình sự đối với bị cáo Võ Thị Mỹ H1; nhưng một số người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt và Luật sư Nguyễn Hoài Phong bào chữa theo yêu cầu của bị cáo có đơn xin hoãn phiên tòa, nên Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã Quyết định Hoãn phiên tòa đồng thời ấn định, sau đó thông báo thời gian mở lại phiên tòa vào hồi 07 giờ 30 ngày 24/12/2019. Tại phiên tòa, tuy có một số bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tiếp tục vắng mặt, nhưng đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai; còn Luật sư bào chữa theo yêu cầu của bị cáo có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và bị cáo cũng đề nghị xét xử vắng mặt người bào chữa. Xét sự vắng mặt của một số bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Luật sư bào chữa theo yêu cầu của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử, nên Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo tiến hành xét xử vụ án theo Điều 291, 292 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[1.2] Từ khi khởi tố vụ án, Luật sư Nguyễn Hoài Phong không còn bào chữa cho bị cáo Võ Thị Mỹ H1, nên Cơ quan điều tra đã yêu cầu Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên phân công; và Văn phòng Luật sư Huy Hoàng đã cử Luật sư Huỳnh Thị Tâm tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị cáo trong suốt quá trình điều tra, truy tố. Tại phiên tòa, bị cáo Võ Thị Mỹ H1 từ chối Luật sư Huỳnh Thị Tâm bào chữa cho bị cáo, lý do: Bị cáo đã nhờ Luật sư Nguyễn Hoài Phong bào chữa; và được Tòa án chấp nhận, nên bị cáo từ chối Luật sư Huỳnh Thị Tâm bào chữa cho bị cáo. Xét sự từ chối người bào chữa cho bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với Điều 77 Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấm dứt việc chỉ định người bào chữa cho bị cáo H1 là có cơ sở chấp nhận.

[1.3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Phú Yên, của Điều tra viên trong quá trình giải quyết vụ án, theo Luật sư Nguyễn Hoài Phong là người bào chữa của bị cáo cho rằng, đã có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng về quyền bào chữa và quá trình tố tụng với bị cáo. Hội đồng xét xử, thấy: Khi giải quyết đơn tố giác về tội phạm, người bị tố giác là Võ Thị Mỹ H1 nhờ Luật sư Nguyễn Hoài P để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho H1; ngày 03/10/2018 thay vì Thông báo về việc đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác theo Điều 83 Bộ luật Tố tụng hình sự; Cơ quan điều tra lại ban hành Văn bản Thông báo đăng ký người bào chữa, đồng ý để Luật sư bào chữa cho H1; về nguyên tắc “Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng”, trừ các trường hợp quy định tại Điểm a, b, Khoản 6 Điều 78 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Nhưng đến ngày 26/11/2018, sau khi có Quyết định khởi tố vụ án hình sự, thay vì hướng dẫn cho người tham gia tố tụng, nếu xét thấy thủ tục cấp thông báo cho người bào chữa cần bổ sung, thì Cơ quan điều tra lại ban hành Văn bản trả lời kiến nghị cho Văn phòng Luật sư Bảo Hiến có nội dung: Từ thời điểm khởi tố vụ án, tư cách tham gia tố tụng của Luật sư Nguyễn Hoài Phong là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác đương nhiên chấm dứt là chưa phù hợp. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, Cơ quan điều tra đã yêu cầu Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên phân công; và Văn phòng Luật sư Huy Hoàng đã cử Luật sư Huỳnh Thị Tâm bào chữa cho bị cáo, trong suốt quá trình điều tra, truy tố bị cáo thống nhất không khiếu nại gì về người bào chữa; do đó việc điều tra, thu thập chứng cứ của Cơ quan điều tra đã được thực hiện đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, nên các chứng cứ thu thập được đều đảm bảo giá trị chứng minh và hợp pháp, chứ không vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.

[2] Mặc dù, bị cáo Võ Thị Mỹ H1 không giải thích được bị cáo đã mua bán tổ yến với ai, ở đâu? Tại sao có lãi, nhưng lại không trả tiền cho các bị hại. Tuy nhiên, bị cáo lại thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố là đúng. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa và trong quá trình điều tra ngoài các Biên bản hỏi cung thì có tới 04 Bản tự khai, 07 Biên bản ghi lời khai và 01 Biên bản hỏi cung sau khi kết thúc điều tra (Bút lục 1767, 1768) bị cáo đều thừa nhận hành phạm tội là phù hợp với nhau; phù hợp với các tin nhắn giữa bị cáo với các bị hại; phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu là chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đều được Cơ quan điều tra thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, hoàn toàn khách quan, có giá trị chứng minh và đảm bảo các thuộc tính của chứng cứ. Nên có đủ cơ sở kết luận: Từ tháng 04/2017 đến tháng 06/2018, Võ Thị Mỹ H1 đã đưa ra thông tin gian dối là đang mua, bán tổ yến có lãi, cần nhiều vốn để kinh doanh và sử dụng điện thoại, tin nhắn rủ rê các bị hại góp vốn, hứa sẽ trả lợi nhuận cao; để các bị hại tin tưởng đưa tiền, H1 liên tục gọi điện thoại, nhắn tin rủ, tự đặt ra đơn hàng, đưa ra mức tiền lãi cao rồi đưa cho các bị hại xem; những đơn hàng đầu để tạo lòng tin H1 kêu gọi người bị hại góp số tiền ít và được H1 trả gốc và lợi nhuận đúng hạn như đã hứa; sau khi thấy người bị hại đã tin tưởng, H1 yêu cầu họ chuyển số tiền nhiều hơn, nhận được tiền H1 không sử dụng mua, bán tổ yến và trả tiền lợi nhuận như đã hứa, mà chiếm đoạt số tiền 4.643.000.000 đồng của 13 người bị hại, cụ thể: Lê Thị Ngọc T1 218.000.000 đồng; Lê Thị Ngọc T2 1.848.900.000 đồng; Lê Thị Ngọc T3 795.000.000 đồng; Nguyễn Thị Tuyết N 405.600.000 đồng; Nguyễn Trình Đ 131.000.000 đồng; Cao Thị Út H 145.000.000 đồng; Phan Thị Thảo N 72.100.000 đồng; Nguyễn Thị Diễm P 141.400.000 đồng; Nguyễn Thị Kim H 286.200.000 đồng; Phạm Thị L 121.000.000 đồng; Nguyễn Thị Mỹ L 268.800.000 đồng; Hoàng Thị N 114.000.000 đồng và Phan Hữu H 96.000.000 đồng. Tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm bị cáo đưa ra thông tin gian dối và nhận được tiền của những người bị hại tin tưởng giao cho bị cáo; do đó, Bản cáo trạng số 17/CT-VKS-P1 ngày 08/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên đã truy tố bị cáo Võ Thị Mỹ H1 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điểm a, Khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội, không cần thiết phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung như Luận cứ của người bào chữa đề nghị.

[3] Bị cáo Võ Thị Mỹ H1 là người có đầy đủ năng lực nhận thức và năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết rõ hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác bị pháp luật nghiêm cấm. Nhưng vì lợi ích cá nhân, thái độ xem thường pháp luật, đã lợi dụng sự tin tưởng để chiếm đoạt tiền của người bị hại. Hành vi của bị cáo không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người bị hại, gây mất trật tự trị an – an toàn xã hội ở địa phương, mà còn thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Điểm g, Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, nên chấp nhận ý kiến của Kiểm sát viên để xử phạt nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo cũng khai rõ hành vi phạm tội của bản thân là thành khẩn khai báo, đã khắc phục trả lại cho 08 người bị hại số tiền 309.550.000 đồng; trong thời gian thực hiện hành vi phạm tội từ tháng 02 đến tháng 06 năm 2018 bị cáo đang có thai; nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm b, n, s, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, để lượng hình cho phù hợp.

[4] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Tổng số tiền mà bị cáo Võ Thị Mỹ H1 đã chiếm đoạt của 13 người là 4.643.000.000 đồng, bị cáo đã khắc phục trả lại cho 08 bị hại số tiền 309.550.000 đồng.

[4.1] Tại phiên tòa, có 12 bị hại và bị cáo thỏa thuận; bị cáo bồi thường cho các bị hại Lê Thị Ngọc T1 218.000.000 đồng; Lê Thị Ngọc T2 1.848.900.000 đồng; Lê Thị Ngọc T3 742.100.000 đồng; Nguyễn Thị Tuyết N 351.400.000 đồng; Nguyễn Trình Đ 56.550.000 đồng; Cao Thị Út H 145.000.000 đồng; Phan Thị Thảo N 42.100.000 đồng; Nguyễn Thị Diễm P 131.400.000 đồng; Nguyễn Thị Kim H 279.200.000 đồng; Phạm Thị L 84.000.000 đồng; Hoàng Thị N 114.000.000 đồng; Phan Hữu H 96.000.000 đồng; tổng cộng 4.108.650.000 đồng. Xét sự thỏa thuận của các bị hại với bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với các Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 585, Điều 589 Bộ luật Dân sự, nên chấp nhận.

[4.2] Đối với bị hại Nguyễn Thị Mỹ L bị chiếm đoạt số tiền 268.800.000 đồng, bị cáo Võ Thị Mỹ H1 đã khắc phục trả 44.000.000 đồng, còn lại 224.800.000 đồng; giữa bị cáo với bị hại đã thống nhất tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết, nên không xét.

[5] Về án phí: Bị cáo Võ Thị Mỹ H1 bị kết án phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và còn tiếp tục bồi thường 4.108.650.000 đồng nên phải chịu 112.000.000 đồng + (0,1% x 108.650.000 đồng) = 112.108.650 đồng quy tròn là 112.108.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 21, 23, 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

[6] Đối với Huỳnh Ngọc T, Huỳnh Thị Hồng L, Huỳnh Trọng K, Nguyễn Thị Lan P, Lê Thị Ngọc T, Bùi Thị Cẩm N đã cho H1 mượn số tài khoản ngân hàng để nhận tiền, riêng T và L còn nhiều lần trực tiếp nhận tiền từ các bị hại rồi đưa lại cho H1. Tuy nhiên, khi cho mượn số tài khoản và nhận tiền đều không biết mục đích của H1 lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên không có căn cứ xử lý trách nhiệm hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Võ Thị Mỹ H1 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng Điểm a, Khoản 4 điều 174; Điểm b, n, s, Khoản 1 Điều 51; Điểm g, Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;

Phạt: Bị cáo Võ Thị Mỹ H1 16 (Mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm bồi thƣờng dân sự: Áp dụng Điều Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 585, Điều 589 Bộ luật Dân sự;

Buộc bị cáo Võ Thị Mỹ H1 phải bồi thường cho các bị hại Lê Thị Ngọc T1 218.000.000đ (Hai trăm mười tám triệu đồng); Lê Thị Ngọc T2 1.848.900.000đ (Một tỷ, tám trăm bốn mươi tám triệu, chín trăm nghìn đồng); Lê Thị Ngọc T3 742.100.000đ (Bảy trăm bốn mươi hai triệu, một trăm nghìn đồng); Nguyễn Thị Tuyết N 351.400.000đ (Ba trăm năm mươi mốt triệu, bốn trăm nghìn đồng); Nguyễn Trình Đ 56.550.000đ (Năm mươi sáu triệu, năm trăm năm mươi nghìn đồng); Cao Thị Út H 145.000.000đ (Một trăm bốn mươi lăm triệu đồng); Phan Thị Thảo N 42.100.000đ (Bốn mươi hai triệu, một trăm nghìn đồng); Nguyễn Thị Diễm P 131.400.000đ (Một trăm ba mươi mốt triệu, bốn trăm nghìn đồng); Nguyễn Thị Kim H 279.200.000đ (Hai trăm bảy mươi chín triệu, hai trăm nghìn đồng); Phạm Thị L 84.000.000đ (Tám mươi bốn triệu đồng); Hoàng Thị N 114.000.000đ (Một trăm mười bốn triệu đồng); Phan Hữu H 96.000.000đ (Chín mươi sáu triệu đồng).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 21, 23, 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Võ Thị Mỹ H1 phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 112.108.000 (Một trăm mười hai triệu, một trăm lẻ tám nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (Đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyên thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Báo cho bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với người vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2019/HS-ST ngày 24/12/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:24/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về