Bản án 24/2019/HS-PT ngày 14/05/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 24/2019/HS-PT NGÀY 14/05/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 14 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 19/2019/TLPT-HS ngày 05 tháng 03 năm 2019 đối với các bị cáo Tống Nhật H và Nguyễn Văn Đ do có kháng cáo của các bị cáo Tống Nhật H và Nguyễn Văn Đđối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 02/2019/HS-ST ngày 21 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Phú Yên.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Tống Nhật H, sinh năm 13/04/2001; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tống Hoài A, sinh năm 1978 và bà Nguyễn Thị Ái H, sinh năm 1980; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

2. Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1998; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Thợ hồ; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1975 và bà Trương Thị X, sinh năm 1976; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

-Người đại diện hợp pháp của bị cáoTống Nhật H: Ông Tống Hoài A, sinh năm 1978 và bà Nguyễn Thị Ái H, sinh năm 1980. Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên; là cha mẹ đẻ của bị cáo; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Tống Nhật Hdo Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Yên cử: Ông Nguyễn Ninh là Luật sư, thực hiện trợ giúp pháp lý; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 23/6/2018, Tống Nhật H thấy Phan Văn H và Lưu Hữu P mỗi người điều khiển một xe mô tô lưu thông trên quốc lộ 29 theo hướng thị trấn Phú Thứ đi Sơn Thành Đông; H nghĩ H1 và P là những người trước đây đánh H nên rủ Nguyễn Văn Đ điều khiển xe mô tô đuổi theo để đánh, Đ đồng ý dùng xe mô tô chở H cầm cục bê tông (nhựa đường) và nửa viên gạch ống bốn lỗ đuổi theo; khi đuổi kịp P, Đ điều khiển xe áp sát xe P, H dùng cục bê tông (nhựa đường) đánh rồi ném vào P (P bị thương tích, nhưng có đơn từ chối giám định), P tăng ga bỏ chạy, Đ tiếp tục điều khiển xe chở H đuổi theo thì gặp H1 chạy xe mô tô 78F1 - 175.60 đi phía trước cùng chiều trên đường. Đ điều khiển xe áp sát H1, H dùng nửa viên gạch ống 04 lỗ ném trúng vào vùng lưng H1 làm H1 và xe ngã xuống lề đường bị thương tích tỷ lệ 54%.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 02/2019/HSST ngày 21/01/2019 của Tòa án nhân dân huyệnT đã tuyên Tống Nhật H và Nguyễn Văn Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với các bị cáo; thêm Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo H. Phạt: Bị cáoTống Nhật H - 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù; Nguyễn Văn Đ- 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt các bị cáo để thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 30/01/2019, bị cáo Tống Nhật H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

Ngày 31/01/2019, bị cáo Nguyễn Văn Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

Tại phiên tòa, các bị cáo Tống Nhật H và Nguyễn Văn Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm đã tuyên.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Không chấp nhận kháng cáo - Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Tống Nhật H: Ông Nguyễn Ninh trình bày đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo H hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được trang tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo Tống Nhật H và Nguyễn Văn Đ tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm đều phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, cùng các chứng cứ là tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nên Hội đồng xét xử, thấy: Mặc dù thương tích của người bị hại dưới 61%, nhưng Nguyễn Văn Đthống nhất dùng xe mô tô chở Tống Nhật H cầmcục bê tông (nhựa đường) và nửa viên gạch ống bốn lỗ đuổi theo cầmcục bê tông (nhựa đường)đánh, ném P (P bị thương tích, nhưng có đơn từ chối giám định), dùng nửa viên gạch ống 04 lỗ ném trúng vào vùng lưng H1 làm H1 và xe ngã xuống đường bị thương tích, tỷ lệ 54%; là phạm tội thuộc trường hợp dùng hung khí nguy hiểm. Do đó, cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử hai bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng tội.

[2] Hành vi sử dụng xe mô tô đuổi theo người bị hại, rồi dùng hung khí nguy hiểm tấn công vào người bị hại cũng đang điều khiển xe mô tô tham gia giao thông đường bộ ở tốc độ cao là rất nguy hiểm, thể hiện ý thức bất chấp pháp luật, xem thường sức khỏe của người khác, nên cần xử lý nghiêm. Khi lượng hình án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, xem xét chế định người dưới 18 tuổi phạm tội đối với bị cáo H và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà cáo bị cáo được hưởng, để phạt bị cáo H 03 năm 06 tháng tù; bị cáo Đ 02 năm 06 tháng tù, là đã có cân nhắc trong quyết định hình phạt; đồng thời không cho các bị cáo hưởng án treo là phù hợp, đáp ứng được yêu cầu phòng chống tội phạm tại địa phương. Do đó, người bào chữa của bị cáo H đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo H hưởng án treo là không có cơ sở, nên không chấp nhận, mà chấp nhận quan điểm của Kiểm sát viên, giữ nguyên bản án sơ thẩm để có đủ thời gian cải tạo, giáo dục các bị cáo.

[3] Các bị cáo Tống Nhật H và Nguyễn Văn Đ kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo hoặc kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Tống Nhật H và Nguyễn Văn Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích”;

Căn cứ Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với các bị cáo; thêm Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo H.

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo - Giữ nguyên bản án sơ thẩm;

Phạt:

- Bị cáo Tống Nhật H- 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

- Bị cáo Nguyễn Văn Đ - 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức, thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Các bị cáo Tống Nhật H và Nguyễn Văn Đ mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

314
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2019/HS-PT ngày 14/05/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:24/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về