Bản án 24/2018/HNGĐ-ST ngày 28/05/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 24/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28/5/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bắc Giang mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 481/2017/TLST-HNGĐ ngày 28/12/2017 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2018/QĐXXST–HNGĐ ngày 26/3/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số:12/2018/QĐST-HNGĐ ngày 26/4/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lê Văn H, sinh năm 1975 (Có mặt).

2. Bị đơn: Chị Vũ Thị B, sinh năm 1981 (Có mặt).

Cùng địa chỉ: Số 240, đường B, phường Đ, thành phố B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anhLê Văn H trình bày:

Anh và chị Vũ Thị B kết hôn ngày 20 tháng 6 năm 2003, đăng ký tại UBND phường Đa Mai, thành phố Bắc Giang. Anh chị kết hôn là hoàn toàn tự nguyện và được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn, đã được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo nghi lễ truyền thống. Sau khi kết hôn anh chị về chung sống với nhau ngay.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Bắt đầu đến giữa năm 2017, thì cuộc sống vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là dochị Bằng ham chơi cờ bạc, lô đề, dẫn đến nợ nần, không quan tâm gì đến chồng con. Từ đó vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau, cuộc sống của vợ chồng ngày càng trở nên căng thẳng. Anh và hai bên gia đình đã khuyên bảo chị Bằng nhiều lần nhưng chị Bằng vẫn vậy, không thay đổi gì. Nay anh xác định không còn tình cảm vợ chồng với chị Bằng nữa, cuộc sống chung vợ chồng không thể tiếp tục, anh đề nghị Tòa án cho anh được ly hôn với chị Bằng.

Về con chung: Anh và chị Bằng có 03 con chung là Lê Văn Huy, sinh ngày 29/05/2004; Lê Hoa Phượng sinh ngày 10/8/2007; Lê Gia Bảo, sinh ngày 12/3/2014. Ly hôn, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả ba con chung. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con, anh chị tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hiện tại anh đang làm thợ mộc tại nhà. Thu nhập hàng tháng bình quân từ 8 đến 9 triệu đồng đủ để đảm bảo cho cuộc sống của anh và các con. Vì là kinh doanh tự do nên anh cũng không có giấy tờ gì để chứng minh cho thu nhập thực tế của mình. 

- Về tài sản chung: Anh chị sẽ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nghĩa vụ chung về tài sản: Anh chị sẽ tự thỏa thuận, không yêu cầuTòa án giải quyết.

* Tại biên bản lấy lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là chị Vũ Thị B trình bày:

Chị và anh Bằng kết hôn ngày 20 tháng 06 năm 2003, đăng ký tại UBND phường Đa Mai, thành phố Bắc Giang. Chị và anh Bằng kết hôn là hoàn toàn tự nguyện và được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn, đã được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo nghi lễ truyền thống. Sau khi kết hôn chị và anh Bằng về chung sống với nhau ngay.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Bắt đầu từ khoảng tháng4 năm 2017, do công việc kinh doanh của chị gặp khó khăn, thua lỗ, chị cũng có tham gia chơi bạc dẫn đến nợ nần nên cuộc sống vợ chồng bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn. Từ đó, cuộc sống vợ chồng trở nên căng thẳng, không còn như trước. 

Đỉnh điểm là tháng 12/2017 thì vợ chồng xảy ra xích mích về việc nợ nần của chị và khi đó có xảy ra sô sát, anh Hát có đánh chị. Khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn như vậy thì gia đình hai bên có hòa giải và khuyên bảo vợ chồng nhẫn nhịn để sống cùng nhau nuôi dạy con cái nhưng anh Hát vẫn không nghe chị và làm đơn ly hôn.

Mặc dù, vợ chồng có mâu thuẫn nhưng nay chị xác định vẫn còn tình cảmvợ chồng với anh Hát. Chị không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của anh Hát. Trường hợp anh Hát nhất quyết ly hôn thì chị đề nghị giải quyết theo pháp luật.

Về con chung: Chị và anh Hát có 03 con chung là Lê Văn Huy, sinh ngày29/05/2004; Lê Hoa Phượng sinh ngày 10/8/2007; Lê Gia Bảo, sinh ngày12/3/2014. Nếu ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng một con chung là cháu Lê Gia Bảo. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con, chị và anh Hát tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện tại chị đang kinh doanh đồ gỗ tự do tại chợ Đồng Kỵ, phường Đồng Kỵ, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Thu nhập hàng tháng bình quân từ 10 đến 15 triệu đồng đủ để đảm bảo cho cuộc sống của chị và con. Vì là kinh doanh tự do nên chị cũng không có giấy tờ gì để chứng minhcho thu nhập thực tế của mình.

- Về tài sản chung: Chị và anh Hát sẽ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nghĩa vụ chung về tài sản: Chị và anh Hát sẽ tự thỏa thuận, khôngyêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tài liệu chứng cứ thu thập được:

- Biên bản ghi lời khai ngày 07/02/2018, con chung của anh Hát, chị Bằng: Cháu Lê Hoa Phượng và cháu Lê Văn Huy trình bày nguyện vọng được ở với anh Hát khi anh Hát và chị Bằng ly hôn.

- Biên bản xác minh ngày 23/3/2018, đại diện chính quyền đại phương tạitổ dân phố Thanh Mai, phường Đa Mai, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang cung cấp: Anh Hát và chị Bằng là vợ chồng, hiện vẫn đăng ký hộ khẩu tại địa phương. Quá trình chung sống tại địa phương, gần đây vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị Bằng ham chơi cờ bạc dẫn đến nợ nần khiến cho kinh tế gia đình khó khăn. Anh Hát đã nhiều lần trả nợ cho chị Bằng nhưng vẫn không hết. Từ đó, cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng, xảy ra cãi vã nhau, vợ chồng không ai quan tâm đến ai.

Tại phiên tòa hôm nay anh Hát và chị Bằng giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án trong quá trình giải quyết vụ án tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự như không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, không tham gia hòa giải,không tham gia đầy đủ các phiên tòa.

- Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng các Điều51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xử:

+ Anh Lê Văn H được ly hôn chị Vũ Thị B.

+ Về con chung:

Giao cho anh Lê Văn H trực tiếp nuôi Lê Văn Huy, sinh ngày 29/05/2004; Lê Hoa Phượng sinh ngày 10/8/2007; giao cho chị Vũ Thị B trực tiếp nuôi Lê Gia Bảo, sinh ngày 12/3/2014. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con, không đặt ra xemxét giải quyết.

+ Về án phí: Anh Hát phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

Xét yêu cầu khởi kiện của anh Hát thì thấy đây là quan hệ tranh chấp hôn nhân gia đình về ly hôn, nuôi con chung thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang theo khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

Anh Hát và chị Bằng kết hôn ngày 20/6/2003 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đa Mai (nay là phường Đa Mai), thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang, được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, qua xác minh tại địa phương cũng như lời trình bày của anh Hát, chị Bằng thì thấy vợ chồng đã nảy sinh mâu thuẫn trong quá trình chung sống. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị Hát nợ nần nhiều, dẫn đến kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn. Từ đó, vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Hiện tại tuy vẫn ở cùng nhà nhưng không ai quan tâm gì đến ai.

Mặc dù chị Bằng không đồng ý ly hôn nhưng xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hơn nữa, anh Hát cũng xác nhận không còn tình cảm vợ chồng với chị Bằng. Do vậy, cần áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để xử cho anh Hát được ly hôn chị Bằng.

[3]. Về con chung: Anh Hát và chị Bằng có 03 con chung là Lê Văn Huy, sinh ngày 29/05/2004; Lê Hoa Phượng sinh ngày 10/8/2007; Lê Gia Bảo, sinh ngày 12/3/2014.

Anh Hát và chị Bằng đều yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả ba con chung. Tuy vậy, anh Hát và chị Bằng lại không chứng minh được thu nhập thực tế của mình, do đó việc giao cả ba con chung cho một người trực tiếp nuôi dưỡng là không phù hợp, không thể đảm bảo cho các con chung có một cuộc sống bình thường. Vậy nên, cần xem xét chấp nhận yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung của từng người.

Về nguyên vọng của con chung, cháu Lê Văn Huy và cháu Lê HoaPhượng đều có nguyện vọng được ở với anh Hát khi vợ chồng ly hôn. Do vậy, giao con chung Lê Văn Huy và Lê Hoa Phượng cho anh Hát nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của con chung. Cháu Lê Gia Bảo còn bé nên rất cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng của người mẹ. Do đó, giao con chung Lê Gia Bảo cho chị Bằng trực tiếp nuôi dưỡng sẽ phù hợp hơn, đảm bảo cho sự phát triển bình thường của con chung.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xétxử không xem xét giải quyết.

[5]. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không cóyêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6]. Về án phí: Anh Hát phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[7]. Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự để tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều39; khoản 4 Điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.Căn cứ Điều 56; Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Lê Văn H được ly hôn chị Vũ Thị B.

2. Về con chung: Giao con chung Lê Văn Huy, sinh ngày 29/05/2004 và Lê Hoa Phượng sinh ngày 10/8/2007 cho anh Lê Văn H trực tiếp nuôi dưỡng.

Giao con chung Lê Gia Bảo, sinh ngày 12/3/2014 cho chị Vũ Thị B trực tiếp nuôi dưỡng.

Người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở anh Hát, chị Bằng thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Anh Hát phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Giang theo biên lai số AA/2012/06520 ngày 28/12/2017. Xác nhận anh Hát đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Báo cho các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2018/HNGĐ-ST ngày 28/05/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:24/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về