Bản án 24/2018/HNGĐ-ST ngày 23/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THẤT – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 24/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/11/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 11 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạch Thất xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 171/2018/TLST- HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2018/QĐXX-ST ngày 02 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Thế H, sinh năm 1983; có mặt; Địa chỉ: Số 359, phố B, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh B.

Bị đơn: Chị Ngô Thị Hồng H 1, sinh năm 1986; vắng mặt; Địa chỉ: Thôn 9, xã P, huyện T, thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, anh Nguyễn Thế H trình bày như sau:

Anh Nguyễn Thế H và chị Ngô Thị Hồng H 1 tự nguyện kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện L, tỉnh B ngày 15/12/2007. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận được khoảng 6 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung. Năm 2014 anh H và chị H1 do mâu thuẫn gia đình nên đã ly thân. Sau đó anh H đã làm đơn ly hôn gửi Tòa án nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội nH do con còn quá nhỏ nên anh H rút đơn vợ chồng trở về sống hòa thuận.

Đến năm 2015, anh H và chị H1 tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, anh H chuyển về sinh sống tại thị trấn Đ, huyện L, tỉnh B . Anh chị chính thức ly thân từ đó tới nay. Gần đây anh H phát hiện ra chị H1 có quan hệ với người đàn ông khác và chung sống như vợ chồng với nhau. Nay anh H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Ngô Thị Hồng H1.

Về con chung: Anh Nguyễn Thế H và chị Ngô Thị Hồng H 1 có hai con chung là Nguyễn Lam Thủy T, sinh ngày 17/6/2007 và Nguyễn Thế Lâm A, sinh ngày 28/6/2010. Hiện nay cháu Thủy T đang sống với chị H1. Cháu Lâm Anh đang sống với anh H. Nay ly hôn anh H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị H1 nuôi dưỡng cháu Thủy T, anh H nuôi dưỡng cháu Lâm Anh và không yêu cầu chị H1 cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn - chị Ngô Thị Hồng H 1 trình bày:

Chị H1 và anh H tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện L, tỉnh B ngày 15/12/2007. Quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, không thể tiếp tục chung sống nên anh chị chính thức ly thân đã hơn hai năm. Nay anh H xin ly hôn chị H1 đồng ý.

Về con chung: Chị H1 và anh H có hai con chung là Nguyễn Lam Thủy T, sinh ngày 17/6/2007 và Nguyễn Thế Lâm A, sinh ngày 28/6/2010. Hiện nay cháu Thủy T đang sống với chị H1. Cháu Lâm Anh đang sống với anh H. Chị H1 có nguyện vọng được nuôi cả hai cháu và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị H1 không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai của cháu Nguyễn Thế Lâm A trình bày:

Bố cháu là Nguyễn Thế H và mẹ cháu là Ngô Thị Hồng H 1. Cháu đang sinh sống với bố từ năm 2015 đến nay tại thị trấn Đ, huyện L, tỉnh B . Nếu bố mẹ cháu ly hôn thì cháu Lâm Anh có nguyện vọng được sống với mẹ là Ngô Thị Hồng H 1.

Tại biên bản lấy lời khai của cháu Nguyễn Lam Thủy T trình bày:

Hiện nay cháu đang sinh sống với mẹ là là Ngô Thị Hồng H 1. Nếu bố mẹ cháu ly hôn thì cháu Thủy T có nguyện vọng được sống với mẹ là Ngô Thị Hồng H 1.

*Quan điểm của Viện kiểm sát:

Về việc thực hiện pháp luật tố tụng của Toà án: Quá trình tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà hôm nay Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự thủ tục của phiên toà sơ thẩm.

Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Anh Nguyễn Thế H và chị Ngô Thị Hồng H 1 kết hôn hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc anh H và chị H1 chính thức ly thân từ năm 2015. Anh chị đều xác định không còn tình cảm vợ chồng và thuận tình ly hôn. Tòa án đã hòa giải nhiều lần nH quan hệ hôn nhân giữa anh H và chị H1 không được cải thiện nên yêu cầu ly hôn của anh H là có căn cứ đề nghị HĐXX chấp nhận.

Về con chung: Anh H và chị H1 có hai con chung là cháu Nguyễn Lam Thủy T, sinh ngày 17/6/2007 và Nguyễn Thế Lâm A, sinh ngày 28/6/2010. Hiện nay cháu Thủy T đang sống với chị H1. Cháu Lâm Anh đang sống với anh H.Nay ly hôn cả anh H và chị H1 đều có đủ điều kiện nuôi con. Anh H có nguyện vọng để cháu Lâm Anh tiếp tục sống với anh và cháu Thủy T tiếp tục ở với chị H1 để cuộc sống của hai cháu không bị đảo lộn. Chị H1 có nguyện vọng được nuôi cả hai cháu và hai cháu đều có nguyện vọng được ở với chị H1. NH xét về điều kiện kinh tế, điều kiện chăm sóc con thì chị H1 làm công việc tự do, thu nhập không ổn định còn anh H đang làm công an tại huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang có thu nhập ổn định. Nếu để hai cháu cùng sống với chị H1 thì khó có thể đảm bảo điều kiện sinh sống phát triển cho hai cháu nên đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Thủy T cho chị H1 trực tiếp chăm sóc và cháu Lâm Anh cho anh H trực tiếp chăm sóc là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh H, chị H1 đều được nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng nên không xét.

Về tài sản chung: Anh H và chị H1 không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]-Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Thế H yêu cầu giải quyết ly hôn với chị Ngô Thị Hồng H 1. Chị H1 hiện cư trú tại xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội nên Tòa án nhân dân huyện Thạch Thất thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Chị H1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tới phiên tòa đến lần thứ hai nH vắng mặt không vì lý do bất khả kháng nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị H1 là có căn cứ phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]-Về yêu cầu khởi kiện của anh H: Anh Nguyễn Thế H và chị Ngô Thị Hồng H 1 kết hôn hợp pháp, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn Đ, huyện L, tỉnh B ngày 15/12/2007. Quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc. Nay anh H và chị H1 đều thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn, mặc dù đã được tòa án hòa giải nhiều lần nhưng mâu thuẫn vợ chồng không được cải thiện.

Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng giữa anh H và chị H1 đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, anh H và chị H1 đã chính thức ly thân hơn hai năm và đều thuận tình ly hôn nên anh H yêu cầu ly hôn chị H1 là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 51 của luật Hôn nhân và gia đình.

[3]- Về con chung: Anh H và chị H1 có hai con chung là Nguyễn Lam Thủy T, sinh ngày 17/6/2007 và Nguyễn Thế Lâm A, sinh ngày 28/6/2010. Hiện cháu Thủy T đang sống với chị H1 và cháu Lâm Anh đang sống với anh H. Xét điều kiện nuôi con của anh H và chị H1 thấy rằng hiện cả hai đều có đủ điều kiện nuôi con nH hiện nay chị H1 là lao động tự do, chị H1 không thường xuyên ở nhà, cháu Thủy T hiện nay chủ yếu sống với ông bà ngoại và do ông bà ngoại chăm sóc, nuôi dưỡng. Tuy các cháu có nguyện vọng được ở với chị H1 nH với điều kiện công việc hiện nay của chị H1 thì không có điều kiện, thời gian để chăm sóc cho các cháu. Anh H hiện đang làm công an tại huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, có công việc và thu nhập ổn định, các cháu đều đang có cuộc sống, sinh hoạt ổn định và được chăm sóc tốt. Vì vậy, để đảm bảo điều kiện sinh sống và học tập ổn định cho hai cháu cần giao cháu Thủy T cho chị H1 trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giao cháu Lâm Anh cho anh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh H và chị H1 không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên không xét.

[4]-Về tài sản chung: Anh H và chị H1 không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

[5]-Về án phí: Anh Nguyễn Thế H phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 4 Điều 147; Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Xử:

1. Anh Nguyễn Thế H ly hôn chị Ngô Thị Hồng H 1.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Lam Thủy T, sinh ngày 17/6/2007 cho chị Ngô Thị Hồng H 1 trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Nguyễn Thế Lâm A, sinh ngày 28/6/2010 cho anh Nguyễn Thế H trực tiếp nuôi dưỡng. Anh H và chị H1 không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Nguyễn Thế H và chị Ngô Thị Hồng H 1 có quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Anh Nguyễn Thế H và chị Ngô Thị Hồng H 1 không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Thế H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại biên lại số: AA/2015/0000995 ngày 19/7/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thất.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Thế H có quyền trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Ngô Thị Hồng H 1 có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2018/HNGĐ-ST ngày 23/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:24/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thất - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về