TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 24/2018/DSPT NGÀY 08/02/2018 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 08 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử phúc thẩm vụ án thụ lý số: 11/2017/TLPT-DS, ngày 17 tháng 10 năm 2017 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Do bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2017/DSST ngày 13/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Bắc Ninh bị kháng cáo Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm 09/2017/QĐ-PT ngày 28/11/2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1956. Có mặt. Địa chỉ: N, khu 6, thị trấn P, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1963. Có mặt. Cùng địa chỉ: Xóm N, xã Đ, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà B: luật sư Nguyễn Thế Uyên văn phòng luật sư Thế Gia, đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh. Có mặt
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: UBND huyện Q do ông Nguyễn Đăng O, Phó phòng Tài nguyên và môi trường huyện Q là đại diện theo ủy quyền. Có đơn xin xử vắng mặt.
Người có kháng cáo: Bà Nguyễn Thị B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm và tài liệu trong hồ sơ thì nội dung vụ kiện như sau:
Phía nguyên đơn là Bà Nguyễn Thị Đ trình bày: Bố bà (cụ Nguyễn Văn T) mất năm 1985, mẹ bà (cụ Nguyễn Thị M) mất năm 1995. Bố mẹ bà có mảnh đất thổ cư từ năm 1954 thể hiện tại bản đồ địa chính 1978 là thửa số 26 diện tích 1.139m2 tại Đông Du, Đ, Q đã được các cấp chính quyền HTX, Huyện, Xã, Thôn công nhận thuộc quyền sử dụng của bố mẹ bà. Bố mẹ bà có 3 người con cụ thể:
1. Bà Nguyễn Thị Đ , sinh năm 1956.
2. Em trai Nguyễn Đức T2 sinh năm 1958 (đã hy sinh).
3. Em trai Nguyễn Văn T3, sinh năm 1961.
Khi em trai bà là Nguyễn Đức T2 chưa đi bộ đội thì chú ruột bà là ông Nguyễn Văn C có mượn ông T bố bà một phần đất để làm chuồng bò. Sau khi em T2 hy sinh ông C lại mượn thêm một phần đất nữa để làm quán cho con trai buôn bán. Về sau không buôn bán nữa nên đến khoảng năm 1990 cô Nguyễn Thị B là con gái ông C đi lấy chồng ở V, Bắc Giang về ở trên phần đất này. Ban đầu cô B1ắc làm quán may rồi phá chuồng bò làm bếp và làm nơi ở. Trong quá trình ở trên đất cô B1ắc tự nhận đất đó là của nhà mình không công nhận việc mượn đất của nhà bà nên gia đình bà đã phải gửi đơn lên các cấp chính quyền. Tại các văn bản trả lời công dân của các cấp đều khẳng định phần đất đó là của gia đình bà. Sau khi bố mẹ bà mất, em T2 cũng hy sinh thì người thừa kế tài sản của bố mẹ để lại chỉ còn bà và em T3. Năm 2003, chị em bà có đề nghị cán bộ địa chính xã Đ vào kiểm tra đo đạc lại đất và hướng dẫn làm thủ tục tách đất, làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 350m2, ông T3 (em bà) được cấp 789m2cấp ngày 20/8/2004. Lý do thời gian qua bà chưa về ở trên đất là vì trước đây vào năm 1985-1986 bà đang là Phó Chủ tịch xã Đ thời điểm xảy ra tranh chấp về ruộng đất giữa HTX Đông Phú và HTX Đ A đều ở địa bàn xã Đ. Người dân HTX Đông Phú đòi đất của HTX Đ A vì theo quan điểm của họ đất đó từ thời cha ông cụ kỵ họ sử dụng thì họ cứ đi đòi về cách đòi đất họ sẽ tự xử lý. Họ kéo nhau đi phá lúa, phá hoa màu của người dân HTX Đ A để đòi lại đất tự tổ chức kéo nhau đi, bà không nhất trí cách làm của họ. Bà đề nghị ngươi dân nên làm đơn trình lên các cấp chính quyền giải quyết. Vì không đồng ý quan điểm của bà nên chi bộ thôn Đông Phú đã cô lập bà. Do tình hình mâu thuẫn đất đai căng thẳng nên UBND huyện có thành lập đoàn kiểm tra có sự tham dự của đại diện UBND tỉnh để về làm việc tại địa phương. Đoàn kiểm tra về làm việc và ở tại gia đình bà, người dân phản đối và tuyên bố nếu gia đình bà cho đoàn kiểm tra ở thì sẽ “sống không chơi, chết không đến”. Tình hình căng thẳng bà báo cáo cấp trên nhưng UBND huyện và thường trực huyện ủy quyết định gia đình bà vẫn phải để đoàn công tác ở để gần dân có điều kiện giải thích. HTX Đông Phú không nhất trí với nội dung làm việc của đoàn kiểm tra, họ cho rằng đoàn kiểm tra đã làm cản trở quá trình đòi đất của họ nên kéo nhau đi biểu tình. Buổi chiều họ vào khám nhà bà thì tối họ kéo đến phá nhà bà, uy hiếp đoàn cán bộ. Sau đó toàn bộ mọi người trong gia đình bà bị dân làng cô lập. Vì tình hình đó năm 1987 bà xin được chuyển công tác để tránh áp lực của người dân. Tỉnh ủy Bắc Ninh bố trí cho bà chuyển công tác để tránh cho bà phải chịu đựng sự cô lập từ dân làng. Cậu T3 em bà tình hình sức khỏe từ nhỏ đã không tốt, về sau lại mắc bệnh tâm thần không được khôn ngoan minh mẫn từ năm 2008. Gia đình cậu T3 ở trên đất chịu nhiều sức ép từ phía gia đình và anh em cô B1ắc. Năm 2001 khi Phòng địa chính UBND huyện Q có kết luận trả lời về việc phần đất cô B1ắc ở thuộc đất của gia đình bà thì lúc đó phía gia đình cô B1ắc tạm không gây chuyện với gia đình bà. Năm 2005 cô B1ắc cùng anh trai cô B1 là cậu Nguyễn Văn V và bà V1 (nay đã mất) là con bác ruột bà có lên nhà bà tại N, Thị trấn P, huyện Q xin ý kiến cho cô B1ắc mượn đất đó xây nhà. Nghĩ tình cảm chị em, hoàn cảnh cô B1 có các con nhỏ chưa có chỗ ở nên bà đồng ý cho cô B1 làm nhà ở trên phần đất đó. Tuy nhiên bà có nói rõ với cô B1 đất đó là đất của bà đã được cấp sổ đỏ, bà cho cô B1 mượn ở đến khi nào bà cần đến thì phải trả lại đất cho bà. Gia đình bà vẫn đóng thuế đất đầy đủ. Đến cuối năm 2006 bà đóng thuế thấy giảm diện tích. Bà làm đơn lên phòng Tài nguyên môi trường mới biết gia đình cô B1 đã được cấp sổ đỏ với phần đất ở đó. Như vậy, thửa đất của bà đã được làm hai sổ đỏ, sổ đỏ của cô B1ắc cấp chồng lên diện tích đất bà đã được cấp sổ đỏ trước đó. Bà khẳng định việc cô B1 được cấp sổ đỏ với phần đất đó là không đúng vì đất đó là đất có nguồn gốc của bố mẹ bà có từ năm 1954 để lại cho chị em bà.
Căn cứ chứng minh về vị trí, nguồn gốc lịch sử thửa đất của gia đình bà là: Bản đồ nhà nước năm 1978 xác định thực tế chỉ có tồn tại thửa đất của bố mẹbà, không có đất của cô B1; Giấy quyền sở hữu đất năm 1992 của HTX nông nghiệp Đông Du xác nhận quyền sử dụng đất của ông T và bà M;
Văn bản kết luận số 22 ngày 10/11/2001 của phòng Tài nguyên và Môi trường; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà được cấp từ năm 2004; Tài liệu chứng minh việc đóng thuế đất ở cho thôn đến năm 2006, 2013; Việc cô B1 tự ý làm sổ đỏ trên đất ở của bà là vi phạm pháp luật. Bà yêu cầu Tòa án tuyên huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số ADD698463 do UBND huyện Q cấp ngày 28/3/2006 cho bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1963; Địa chỉ thường trú: Thôn N, Đ, Q, Bắc Ninh (thửa đất số 209 tờ bản đồ 20 có diện tích 52m2). Phần đất này thuộc diện tích đất đã được UBND huyện Q cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 005165 vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01180 QSDĐ, số 1550/QĐ-UB ngày 20/8/2004 cho hộ bà Nguyễn Thị Đ ở thôn N, Đ, Q, Bắc Ninh với diện tích 350m2. Đối với tài sản (nhà) của bà B đã làm trên đất của bà, bà tự nguyện trích trả bà B giá trị tài sản theo như đã định giá của hội đồng định giá đối với tài sản gắn liền trên đất của bà B.
Bị đơn là bà Nguyễn Thị B trình bày: Phần đất bà đang ở có nguồn gốc là đất của bố mẹ bà cho bà. Trước đây khi bố mẹ bà còn sống phần đất đó là công trình phụ và chuồng bò. Bố mẹ bà đã xây quán nước định cho anh trai bà ra ở nhưng về sau anh trai bà có đất ở riêng nên bố mẹ đã cho bà phần đất đó. Về thực tế phần đất của bà, của bà Đ và của anh T3 đều có nguồn gốc là đất ở của bố mẹ bà trước đây. Do điều kiện ông T (bố bà Đ) vợ cả và các con đều chết điều kiện khó khăn nên bố bà thương anh, cho anh về ở trên đất của gia đình. Thời gian sau ông T4 lấy vợ (mẹ bà Đ), sinh con và vẫn ở trên đất của nhà bà, lấn thêm chỗ ở trên đất của nhà bà mới thành ra phần đất mà bà Đ và anh T3 có như hiện nay. Phần đất hiện bà đang ở là của bố mẹ bà cho bà, từ năm 1980 bà đã làm may trên phần đất đó. Năm 1990 bà lấy chồng vẫn ở trên đất đó vì bố mẹ tuyên bố cho bà. Năm 2001 chồng bà mất bà đưa về quê chồng ở V, Bắc Giang lo ma. Tháng 3 năm 2004 do chỗ ở dột nát sắp sụp nên bà phá đi làm nhà kiên cố như hiện nay. Năm 2006 bà được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi biết việc bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giữa bà và bà Đ xảy ra tranh chấp. Bà Đ đòi lại phần đất của bà và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà với lý do đất đó của bà Đ nên sự việc tranh chấp kéo dài đến nay. Quan điểm của bà không đồng ý với việc khởi kiện của bà Đ vì đất ở là của bố mẹ bà cho bà, bà Đ không có quyền gì đối với đất đó. Đối với việc bà Đ khởi kiện tại Tòa án bà hoàn toàn nhất trí việc bà Đ đi kiện vì bản thân bà cũng muốn Tòa án thụ lý và giải quyết cho dứt điểm tránh việc tranh chấp kéo dài nhiều năm và trả lại công bằng cho gia đình bà.
Đại diện theo ủy quyền UBND huyện Q ông Nguyễn Đăng O có ý kiến trình bày: Ông xác định bản đồ bà Đ xuất trình khi làm việc tại Tòa án là bản đồ của năm 1978. Việc khởi kiện của bà Đ đối với bà B đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
Với nội dung nêu trên bản án sơ thẩm đã căn cứ vào các Điều 163, 166 Bộ luật dân sự; Điều 203 Luật đất đai năm 2013; các Điều 34, 147, 165, 235, 239, 247, 264, 266 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 1 Nghị quyết 104 ngày 25/11/2015 của Quốc Hội về thi hành luật tố tụng hành chính năm 2015; Pháp lệnh án phí lệ phí: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Đ;
Xác nhận thửa đất số 209 tờ bản đồ số 20 có diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 52m2 tại địa chỉ Xóm N, xã Đ, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh thuộc quyền sử dụng của bà Nguyễn Thị Đ theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất AA 005165 do UBND huyện Q cấp ngày 20/8/2004.
Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 698463 do UBND huyện Q cấp ngày 29/3/2006 cho bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1963 trú tại Thôn Núi, xã Đ, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh (thửa đất số 209 tờ bản đồ số 20 có diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 52m2). Buộc bà Nguyễn Thị B phải có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị Đ toàn bộ diện tích đất ở.
Về tài sản trên đất: Toàn bộ tài sản do bà B xây dựng. Bà Đ được quyền sử dụng đất, được quyền sở hữu toàn bộ tài sản gắn liền với đất và có trách nhiệm trả bà B giá trị của tài sản trên đất là 186.356.736đ.
Ngoài ra bản án còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án, án phí, lệ phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 24/7/2017 bà Nguyễn Thị B làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà B cho rằng phần đất đang tranh chấp là của bố mẹ bà cho bà, năm 2006 bà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên bà không đồng ý trả lại bà Đ.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà B trình bày: Nguồn gốc phần đất đang tranh chấp là của bố mẹ bà B cho bà B. Trước đây khi bố mẹ bà B còn sống phần đất đó là công trình phụ và chuồng trâu, chuồng bò và đã sử dụng rất lâu từ trước năm 1972. Năm 1978 bố mẹ bà B đã xây quán nước định cho con trai ở nhưng về sau anh trai bà B có đất ở riêng nên bố mẹ đã cho bà B làm may và ở từ đó đến nay đã được thể hiện trên bản đồ địa chính. Năm 2004 bà B đã làm nhà kiên cố theo qui định của điều 255, 247 bộ luật dân sự năm 2005 bà B chiếm hữu ngay tình công khai liên tục trên 30 năm đối với bất động sản thì được nhà nước công nhận, nên luật sư đề nghị chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà B, công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 52m2, bác đơn khởi kiện của bà Đ và đình chỉ vụ án. Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án là đảm bảo theo đúng trình tự thủ tục tố tụng.
Về nội dung vụ án đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX căn cứ khoản 2 điều 308, điều 309 sửa bản án sơ thẩm bác đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Đ công nhận quyền sử dụng hợp pháp quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị B.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như lời trình bày của các đương sự, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử xét thấy:
Nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp giữa gia đình bà Đ và gia đình bà B được xác định từ năm 1954 đó là thời điểm sau khi Thực Dân Pháp rút khỏi địa phương người dân mới quay về làng sinh sống. Từ thời điểm 1954 đến trước năm 1978 tại địa phương không có một tài liệu nào xác định được ranh giới đất và hiện trạng đất của các hộ dân sinh sống tại khu vực Xóm N, xã Đ. Năm 1978 các diện tích đất của người dân thuộc xã Đ, Q mới được thể hiện trên bản đồ địa chính. Trên bản đồ năm 1978 thể hiện ông Nguyễn Văn T bà Nguyên Thị M có quyền sử dụng thửa đất số 26 có diện tích 1.139m2 tại Đ, Đ, Q; Ông Nguyễn Văn C có quyền sử dụng thửa đất số 03 diện tích 308m2 tại Đông Du, Đ, Q. Trước năm 1980 thì ông Nguyễn Văn C có mượn một phần đất nhà của gia đình bà Đ để làm chuồng trâu, chuồng bò và sau đó mượn thêm một phần đất nữa để làm quán cho con trai buôn bán. Về sau con trai ông C không buôn bán nữa mà chuyển đi ở nơi khác, đến khoảng năm 1990 bà Nguyễn Thị B là con gái ông C đi lấy chồng ở V, Bắc Giang về làm may, làm nơi ở, rồi phá chuồng bò làm bếp. Thời điểm bà B về khu đất đó ở thì giữa hai nhà đã có tranh chấp với nhau và đã được UBND xã Đ, UBND huyện Q giải quyết tại các kết luận các cơ quan có thẩm quyền đều xác nhận phần đất bà B đang sử dụng là thuộc quyền sử dụng của gia đình bà Đ dựa trên cơ sở bản đồ địa chính năm 1978. Sau khi bố mẹ bà Đ mất chị em bà Đ tự thỏa thuận chia diện tích đất của bố mẹ làm hai phần, bà Đ đã làm thủ tục tách đất và được cấp đất làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) (bà được cấp sổ đỏ với diện tích 350m2, ông T3 được cấp 789m2) vào ngày 20/8/2004. Bản án sơ thẩm đã xử và quyết định phần diện tích đất số 209 tờ bản đồ 20 có diện tích 52m2 tại Xóm N, Đ, Q thuộc quyển sử dụng của bà Nguyễn Thị Đ, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà B.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bà B có đơn kháng cáo đề nghị xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm. Xem xét kháng cáo của bà B Hội đồng xét xử thấy:
Thứ nhất, về tố tụng Hội đồng xét xử thấy: Đương sự yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ban đầu căn cứ vào thời điểm thụ lý vụ án là ngày13/5/2015; căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ khoản 5 Điều 1 Nghị quyết 104 ngày 25/11/2015 của Quốc Hội về thi hành Luật tố tụng hành chính 2015 việc Tòa án đã thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
Trong quá trình giải quyết vụ án bà B có đưa ra căn cứ hiện tại thửa đất đang có tranh chấp đang được thế chấp để vay vốn tại Ngân hàng NN&PTNT chi nhánh Đông Du, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh. Tuy nhiên phía đại diện Ngân hàng đã không yêu cầu xem xét trong vụ án và đề nghị không tham gia tố tụng. Do vậy, Tòa án đã không đưa Ngân hàng NN&PTNT chi nhánh Đông Du, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh vào tham gia tố tụng là phù hợp.
Ngày 22/5/2017 bà B có đơn yêu cầu phản tố, thời điểm này Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 01/12/2016; tiếp tục ra quyết định đưa vụ án ra xét xử ngày 17/4/2017 như vậy theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự yêu cầu phản tố của bà B không được chấp nhận xem xét là phù hợp với quy định của pháp luật.
Thứ hai, về nội dung vụ án Hội đồng xét xử thấy: Nguồn gốc thửa đất 209 tờ bản đồ 20 có diện tích 52m2 tại Xóm N, Đ, Q. Thửa đất đang tranh chấp theo các bên trình bày thì đều có nguồn gốc từ bố mẹ sử dụng ổn định từ sau năm 1954. Xét về căn cứ pháp lý thì tại thời điểm trước năm 2003 chỉ có duy nhất Tờ bản đồ địa chính năm 1978 là việc thực hiện chủ trương quản lý đất đai của nhà nước trên cơ sở rà soát tình hình sử dụng đất đai thực tế tại địa phương để lập ra, dựa trên cơ sở sổ điền bạ mốc giới thực tế của các thửa đất, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm duyệt xây dựng. Theo trình bày của cán bộ địa chính xã Đ tại thời điểm trước năm 2003 và Tòa án đã xác minh thì không có một căn cứ nào để xác định được lịch sử và thực trạng sử dụng đất của các hộ dân trong khu vực ngoài tờ bản đồ năm1978. Do đo, cần xác định bản đồ địa chính năm 1978 là căn cứ quan trọng trongviệc xác định thực tế quản lý sử dụng đất của từng hộ dân tại xã Đ.
Trên cơ sở căn cứ vào tờ bản đồ địa chính năm 1978 tại biên bản giải quyết đơn đề nghị của bà Nguyễn Thị Đ Phòng Địa chính huyện Q đã có bản kết luận năm2001 trong bản kết luận khẳng định hai thửa đất của gia đình ông Nguyễn Văn T (bố bà Đ) và gia đình ông Nguyễn Văn C (bố bà B) là hai thửa đất riêng biệt, hai thửa đất cách nhau bằng một lối đi chung mà cả hai nhà đều sử dụng, có tứ cận tiếp giáp cụ thể tức là ranh giới các thửa đất rõ ràng, đồng thời xác nhận diện tích đất mà bà B đang sử dụng nằm trong phần diện tích đất của ông Nguyễn Văn T3 hiện tại là đất của bà Đ theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 2004. Như vậy, trước khi nhà nước lập bản đồ địa chính tại khu vực xã Đ thì chính quyền địa phương đã xác nhận thửa đất 209 tờ bản đồ 20 có diện tích 52m2 tại Xóm N, Đ, Q là một phần của thửa đất của bà Đ, thửa đất 209 không tồn tại độc lập ngăn cách bằng lối đi. Lý do mà thửa đất 209 tờ bản đồ 20 có diện tích 52m2 tại Xóm N, Đ, Q được thể hiện trên bản đồ địa chính năm 2003 theo lời trình bày của ông Mai Thành Trung cán bộ địa chính thời kỳ đó là do bà B đã làm nhà kiên cố và đã tự kê khai sử dụng phần đất đó với cơ quan nhà nước mà không có bất kỳ giao dịch chuyển nhượng đất nào đối với diện tích đất của gia đình bà Đ nên thửa đất 209 mới bị tách ra khỏi thửa đất của hộ bà Đ thành hai thửa và đó cũng là lý do có sự khác biệt giữa tờ bản đồ địa chính năm 1978 và năm 2003.
Phía bà B cho rằng diện tích đất 52m2 tại Xóm N, Đ là của bố mẹ sử dụng từ những năm 1954 sau đó để lại cho bà nhưng bà lại không đưa ra cơ sở pháp lý nào cho việc sử dụng đất hợp pháp của gia đình mình mà chỉ có lời khai tại tòa án và các đơn xác nhận của những người làm chứng. Tuy nhiên, trong các đơn xác nhận của những người làm chứng cũng chỉ xác nhận là gia đình bà có sử dụng phần đất đó nhưng nguồn gốc đất từ đâu mà có, của ai thì không ai khẳng định được. Trong phần căn cứ trên đã nêu tại kết luận của Phòng địa chính huyện Q khẳng định gia đình ông C và ông T mỗi người quản lý sử dụng một thửa đất, hai thửa đất này riêng biệt với nhau cách nhau một ngõ đi chung. Như vậy cần xác định mốc giới đất nhà bà Đ được tính từ mép ngõ đi chung kéo về phần đất của hộ bà Đ. Qua xem xét thẩm định thửa đất đang tranh chấp và các thửa đất liên quan Hội đồng xét xử thấy thửa đất ông C hiện nay là thửa đất số 205 tờ bản đồ số 20 diện tích là 363m2 tại bản đồ năm 2003 và thửa đất đang có tranh chấp là hai thửa đất riêng biệt cách nhau bởi ngõ đi chung là có căn cứ
Từ các căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy thửa đất 209 tờ bản đồ 20 có diện tích 52m2 nằm trong diện tích của nhà bà Đ đã được cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là diện tích thuộc quyền sử dụng của gia đình nhà bà Đ, phần đất này giữa hai gia đình đã có tranh chấp từ lâu, năm 1992 mẹ bà Đ đã có đơn khởi kiện và cũng kéo dài nhiều năm, năm 2001 đã có kết luận số: 22 ngày 10/11/2001của phòng TNMT huyện kết luận đất thuộc nhà bà Đ, bà Đ không chuyển nhượng hay tặng cho ai. Do vậy bản án sơ thẩm tuyên buộc bà B phải có nghĩa vụ trả cho bà Đ thửa đất là có căn cứ.
Xét về trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình nhà bà Đ và bà B, Hội đồng xét xử thấy: Ngày 26/10/2003 bà Đ và ông T3 đã có đơn đề nghị tách thửa đất số 26 thành hai thửa đất, ngày 01/6/2004 bà Đ và ông T3 nộp tờ khai xác định mốc thời gian sử dụng đất ở từ năm 1954 do bố mẹ để lại có xác nhận của Chủ tịch UBND xã Đ; ngày 08/6/2004 Hội đồng đăng ký đất đai của UBND xã Đ ra biên bản xét duyệt xác nhận việc kê khai của nguồn gốc sử dụng đất của bà Đ và ông T3. Trên cơ sở hồ sở kê khai có xác nhận, kiểm duyệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trình ngày 20/8/2004 UBND huyện Q ra hai Quyết định số 1150/QĐ-UB, 1151/QĐ-UB V/v Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bàNguyễn Thị Đ và ông Nguyễn Văn T3.
Đối với việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà B: Tại Công văn trả lời của Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh huyện Q có trả lời cho Tòa án với nội dung Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị B đối với thửa đất số 209 tờ bản đồ 20 có diện tích 52m2 tại Xóm N, Đ, Q không được lưu trữ tại cơ quan đề nghị Tòa án liên hệ với UBND xã Đ để làm rõ. Tòa án đã tiến hành xác minh tại UBND xã Đ thì tại địa phương hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất của bà B cũng không được lưu trữ, về nguồn gốc thửa đất địa phương không được thể hiện trên bản đồ địa chính nào, bà B chỉ mới được thể hiện trên bản đồ năm 2003, trong sổ biên bản xác định ranh giới mốc giới thửa đất năm 2003 chỉ có bà B ký tên mà không có chữ ký của hộ giáp ranh liền kề. Như vậy, qua các tài liệu chứng cứ thấy rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà B đối với thửa đất số 209 tờ bản đồ 20 có diện tích 52m2 là có nhiều sai phạm cấp trùng vào thửa đất đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dã cấp cho bà Nguyễn Thị Đ ( một thửa đất cấp hai giấy chứng nhận). Việc bản án sơ thẩm tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ bà Nguyễn Thị B đối với thửa đất 209 tờ bản đồ 20 có diện tích 52m2 tại Xóm N, Đ, Q buộc bà B phải trả lại thửa đất trên cho bà Đ là có căn cứ.
Đối với toàn bộ tài sản trên thửa đất tranh chấp là do bà B xây dựng lên, tuy nhiên xét về quyền sử dụng đất thì việc bản án tuyên cho bà Đ có quyền sở hữu toàn bộ tài sản trên đất và phải có nghĩa vụ trích trả giá trị tài sản cho bà B là hoàn toàn thỏa đáng. Tại phiên tòa phúc thẩm bà B không đưa ra được căn cứ nào mới để Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận, cần bác toàn bộ kháng cáo của bà Nguyễn Thị B. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bà B phải phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 163, 166, Bộ luật dân Điều 203 Luật đất đai năm 2013; Khoản 5 Điều 1 Nghị quyết 104 ngày 25/11/2015 của Quốc Hội về thi hành luật tố tụng hành chính năm 2015; Pháp lệnh án phí lệ phí Tòa án; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, xử: Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Đ;
Xác nhận thửa đất số 209 tờ bản đồ số 20 có diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 52m2 tại địa chỉ Xóm N, xã Đ, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh thuộc quyền sử dụng của bà Nguyễn Thị Đ theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất AA 005165 do UBND huyện Q cấp ngày 20/8/2004. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 698463 do UBND huyện Q cấp ngày 29/3/2006 cho bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1963 trú tại Thôn Núi, xã Đ, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh (thửa đất số 209 tờ bản đồ số 20 có diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 52m2). Buộc bà Nguyễn Thị B phải có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị Đ toàn bộ diện tích đất ở.
2. Về tài sản trên đất: Toàn bộ tài sản trên đất do bà B xây dựng. Bà Đ được quyền sử dụng đất, được quyền sở hữu toàn bộ tài sản gắn liền với đất và có trách nhiệm trả bà B giá trị của tài sản trên đất là 186.356.736đ.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án nếu bên phải thi hành án không tự giác chấp hành thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi xuất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
3. Về chi phí thẩm định và định giá tài sản: Bà Nguyễn Thị Đ phải chịu 8.000.000đ tiền xem xét thẩm định, định giá tài sản, xác nhận bà Đ đã nộp đủ.
4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Đ phải chịu 9.317.000đ án phí DSST, bà Đ được trừ số tiền 1.000.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 03974 ngày13/5/2015 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Bắc Ninh. Bà Đ phải nộp 8.317.000đ án phí DSST.
Bà Nguyễn Thị B phải chịu 13.000.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá nghạch và 300.000đ tiền án phí dân sự phúc thẩm. Xác nhận bà B đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự theo biên lai thu số 04824 ngày 25/7/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Bắc Ninh.
Trường hợp quyết định, bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 24/2018/DSPT ngày 08/02/2018 về tranh chấp quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 24/2018/DSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 08/02/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về