Bản án 241/2021/HS-PT ngày 22/04/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 241/2021/HS-PT NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 688/2020/TLPT- HS ngày 10 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Thanh A do có kháng cáo của bị cáo ông Trần Minh B, ông Chung Đăng C đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 427/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo bị kháng cáo Nguyễn Thanh A; giới tính: nam; sinh ngày 07 tháng 10 năm 1985, tại: tỉnh Đồng Nai; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: 116N4, khu phố 1, phường D, Thành phố Đ, tỉnh Đồng Nai; quốc tịch Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên Chúa; nghề nghiệp: kinh doanh xe ô tô; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Nguyễn Văn E và bà Nguyễn Thị Ngọc F; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/3/2018 – vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Trần Minh B sinh năm 1984; nơi cư trú: 15/1A khu phố 3, phường D, thành phố Đ, tỉnh Đồng Nai – vắng mặt;

- Ông Đinh Khắc G, sinh năm 1985; nơi cư trú: 18 khu phố 1, phường D, thành phố Đ, tỉnh Đồng Nai – vắng mặt;

- Ông Chung Đăng C, sinh năm 1985; nơi cư trú: 236/5 ấp Nhứt Hòa, phường Hiệp Hòa, thành phố Đ, tỉnh Đồng Nai – có mặt;

(Bị cáo, những bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác không có kháng cáo, kháng nghị Tòa án không triệu tập)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2015, Nguyễn Thanh A làm Trưởng phòng kinh doanh Công ty cổ phần H, biết được chính sách thuế nhập khẩu xe ô tô sắp tăng, nhiều khách hàng sẽ tranh thủ đăng ký mua xe nhập khẩu để hưởng lợi về thuế. Quá trình làm việc tại H, A tự kinh doanh mua bán thêm xe ô tô bên ngoài, để thuận lợi cho việc kinh doanh, A nhờ Nguyễn Thành I (bạn A) là Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại – dịch vụ J (viết tắt Công ty J) cho mượn pháp nhân Công ty J khi ký kết hợp đồng, xuất hóa đơn giá trị gia tăng và tài khoản ngân hàng của Công ty để giao dịch. Cuối năm 2015, do kinh doanh thua lỗ số tiền lớn và muốn có tiền trả nợ, dù không có xe để bán, nhưng A đã dùng thủ đoạn gian dối rao bán nguồn xe ô tô nhập khẩu giá rẻ, đặt cọc sẽ có xe nhanh. A lợi dụng pháp nhân Công ty J là đại lý bán xe ô tô Toyota và dùng pháp nhân Công ty J ghi lên hợp đồng, ký giả chữ ký của Nguyễn Thành I trên các hợp đồng mua bán xe, đặt cọc xe, xuất hóa đơn giá trị gia tăng giao dịch đối với các Công ty TNHH K, Công ty TNHH đầu tư thương mại, xây dựng và xuất nhập khẩu L, Công ty TNHH tin học thương mại công nghệ và tư vấn M và Công ty cổ phần đầu tư N làm cho các công ty này tin tưởng là thật, từ đó đồng ý mua xe và đặt cọc tiền mua xe chuyển vào tài khoản cá nhân của A số 0251002723999 (mở tại ngân hàng O) và tài khoản của Công ty J số 0251002725588 (mở tại ngân hàng O) chiếm đoạt số tiền của các công ty trên, tổng cộng 15.533.000.000 đồng, cụ thể:

1. Hành vi chiếm đoạt số tiền 800.000.000 đồng của Công ty TNHH K (viết tắt là Công ty TNHH K):

Tháng 12/2015, ông Nguyễn Đức P - Giám đốc Công ty K thỏa thuận với A đặt mua 08 xe ô tô Toyota Land Cruise VX, A đồng ý với điều kiện ông P phải chuyển trước tiền đặt cọc 08 xe ô tô là 800.000.000 đồng. Để ông P tin tưởng, A đã gửi bản chụp hợp đồng mua xe ô tô giữa Công ty J với Toyota Nha Trang qua phần mềm Viber. Ngày 07/12/2015, A soạn thảo hợp đồng mua bán xe ô tô số J 02/12/15KD-HĐMB, với nội dung: Công ty K cam kết sẽ mua xe ô tô Toyota do Công ty J cung cấp theo giá do Công ty Toyota Việt Nam niêm yết tại thời điểm ký hợp đồng; tên hàng: Xe ô tô Land Cruise VX 2016, số lượng 08 chiếc với giá dự kiến 2.850.000.000 đồng/chiếc, tổng giá trị là 22.600.000.000 đồng; thời gian dự kiến giao xe từ tháng 5/2016 đến tháng 8/2016 tại Thành phố Hồ Chí Minh (A ký giả chữ ký của Nguyễn Thành I đại diện bên bán, đóng dấu Cty J) rồi gửi cho ông P. Từ ngày 03/12/2015 đến ngày 07/12/2015, ông P đã chuyển khoản số tiền 800.000.000 đồng vào tài khoản số 0251002725588 của Công ty J. Sau khi nhận được tiền đặt cọc, A không đặt mua xe mà đã sử dụng để trả các khoản vay nợ cho: ông Trần Minh B 300.000.000 đồng, Ông Đinh Khắc G 99.500.000 đồng và Toyota Lý Thường Kiệt 200.000.000 đồng. Số tiền còn lại A tiêu xài cho cá nhân.

2. Hành vi chiếm đoạt số tiền 7.841.000.000 đồng của Công ty TNHH đầu tư thương mại xây dựng và xuất nhập khẩu L (viết tắt là Công ty L):

Tháng 04/2016, thông qua ông Nguyễn Ảnh Thanh Q, nhân viên công ty H, A quen biết với ông Nguyễn Thế R - giám đốc Công ty L. Biết ông R đang có nhu cầu cần mua xe ô tô nên A cho ông R biết hiện A có nhiều xe Toyota Land Cruise để bán. Để tạo niềm tin, A gửi các bản chụp thư thông báo của Công ty Toyota S về kế hoạch giao xe ô tô cho Công ty J nên ông R tin tưởng đồng ý đặt mua xe. Từ ngày 14/4/2016 đến ngày 26/5/2016, A đã soạn thảo 04 hợp đồng đặt mua xe ô tô gồm: số LC-05/04/2016 ngày 14/4/2016; số J08/04/16KD- HĐMB ngày 25/4/2016; số J0l0/05/16KD-HĐMB ngày 24/5/2016; số J012/05/16KD-HĐMB ngày 26/5/2016 để đặt mua 04 xe ô tô Toyota Land Cruise VX (A ký giả chữ ký của Nguyễn Thành I (đại diện bên bán), đóng dấu Công ty J), rồi gửi chuyển phát nhanh cho ông R (đại diện bên mua) để ký kết các hợp đồng và đóng dấu Công ty L. Từ ngày 14/4/2016 đến ngày 13/6/2016, Công ty L đã chuyển khoản 09 lần với tổng số tiền là 7.941.000.000 đồng (bao gồm tiền theo giá trị hợp đồng và tiền chênh lệch ngoài hợp đồng) vào tài khoản cá nhân của A và tài khoản của Công ty J. Đến thời hạn cam kết, A tắt điện thoại để trốn tránh. Đến ngày 15/7/2016, A chuyển khoản hoàn trả lại cho Công ty L số tiền 100.000.000 đồng vào tài khoản số 0611001655950 của ông R. A thừa nhận sau khi nhận được tiền của Công ty L, A không đặt mua xe mà đã sử dụng để trả nợ cho nhiều người, gồm: trả cho ông Nguyễn Ngọc T 1.175.000.000 đồng, Ông Đinh Khắc G 415.000.000 đồng, bà Nguyễn Ngọc U 250.000.000 đồng, ông Vũ Ngọc V 250.000.000 đồng, ông Vũ Đình W 180.000.000 đồng, ông Phạm Xuân X 100.000.000 đồng, số tiền còn lại A rút tiền mặt để trả nợ cho nhiều cá nhân (không xác định được) và tiêu xài cá nhân 5.471.000.000 đồng.

3. Hành vi chiếm đoạt số tiền 6.892.000.000 đồng của Công ty TNHH tin học thương mại công nghệ và tư vấn M (viết tắt là Công ty M) và Công ty cổ phần đầu tư N(viết tắt là Công ty N):

Thông qua anh Trần Việt Y nhân viên của Công ty Toyota S A quen biết với ông Nguyễn Thành Z nhân viên Công ty M. Ngày 29/6/2016, thông qua bạn bè làm việc tại Toyota Bình Dương, A biết được Toyota Bình Dương có bán 02 xe ô tô Land Cruise vx với tổng giá trị là 7.442.000.000 đồng (trong đó giá hợp đồng là 2.851.000.000 đồng/chiếc, giá chênh lệch ngoài hợp đồng là 870.000.000 đồng). Bản thân A không có tiền để mua 02 xe ô tô trên nhưng A vẫn điện thoại chào bán cho ông Z 02 xe ô tô nói trên. Sau khi thỏa thuận, A đồng ý bán cho ông Z 02 xe ô tô với giá là 6.892.000.000 đồng (bao gồm cả tiền chênh lệch) với điều kiện ông Z phải chuyển ngay tiền chênh lệch là 1.190.000.000 đồng cho A. Do cùng một lúc mua 02 xe ô tô nói trên không có đủ tiền nên ông Z đã liên hệ đề nghị ông Trần Văn A1 - Công ty N mua 01 xe ô tô Land Cruise với giá 3.490.000.000 đồng theo đó số tiền trên hợp đồng là 2.851.000.000 đồng, tiền chênh lệch ngoài hợp đồng là 639.000.000 đồng (trong đó tiền công môi giới bán xe của ông Z là 39.000.000 đồng và tiền phí vận chuyển xe là 10.000.000 đồng). Sau đó, ông Z đến Công ty N nhận số tiền 639.000.000 đồng như đã thỏa thuận và lấy thông tin của Công ty N để cung cấp cho A. Ông Z đã chuyển khoản số tiền 2.851.000.000 đồng tiền mua xe của Công ty M vào tài khoản của Công ty J và chuyển số tiền 300.000.000 đồng (tiền chênh lệch ngoài hợp đồng) của Công ty N vào tài khoản của A. A thảo: hợp đồng mua bán xe ô tô số 0031/06/2016 ngày 30/6/2016, với nội dung Công ty J bán cho Công ty M 01 xe ô tô Land Cruise với giá là 2.851.000.000 đồng, thời gian giao xe trước ngày 05/7/2016 và hợp đồng mua bán xe ô tô số 0032/06/2016 ngày 30/6/2016, với nội dung Công ty J bán cho Công ty N 01 xe ô tô Land Cruise với giá là 2.851.000.000 đồng, thời gian giao xe trước ngày 09/7/2016 (A đã ký giả chữ ký của I ký trên 02 hợp đồng, đóng dấu Công ty J), rồi chuyển phát nhanh cho Công ty M và Công ty N. Ngày 01/7/2016, Công ty N tiếp tục chuyển số tiền 2.851.000.000 đồng theo hợp đồng vào tài khoản của Công ty J và ông Z chuyển số tiền chênh lệch là 600.000.000 đồng (của Công ty M) vào tài khoản của A. Đến ngày 07/7/2016, ông Z tiếp tục chuyến số tiền chênh lệch còn lại 290.000.000 đồng (của Công ty N) vào tài khoản của A.

Như vậy, Công ty M và Công ty N đã chuyển đủ số tiền mua xe theo hợp đồng là 5.702.000.000 đồng vào tài khoản của Công ty J và chuyển số tiền chênh lệch ngoài hợp đồng là 1.190.000.000 đồng vào tài khoản của A. A sử dụng tiền chiếm đoạt được của Công ty M, Công ty N trả các khoản nợ cho các cá nhân và pháp nhân, cụ thể như sau:

- Thông qua tài khoản của Công ty J (TK: 0251002725588):

+ Ngày 30/6/2016, nhận 2.851.000.000 đồng của Công ty M, cùng ngày A chuyển trả nợ cho ông Chung Đăng C 167.807.700 đồng, ông Phạm Xuân X 350.000.000 đồng; còn lại 2.333.192.300 đồng;

+ Ngày 01/7/2016, nhận 2.851.000.000 đồng của Công ty N. Thời điểm này trong tài khoản của Công ty J còn lại 2.333.192.300 đồng, tổng cộng là 5.184.192.300 đồng. A chuyển trả nợ cho ông Phạm Xuân X 350.000.000 đồng; ông Nguyễn Ngọc T 700.000.000 đồng, số tiền còn lại A rút tiền mặt trả cho nhiều cá nhân (không xác định được) và tiêu xài cá nhận.

- Thông qua tài khoản cá nhân của A (TK số: 02510027233999):

+ Ngày 01/7/2016, nhận của Công ty N 600.000.000 đồng và nhận của Công ty M 300.000.000 đồng, A chuyển trả nợ cho ông Phạm Xuân X 300.000.000 đồng.

+ Ngày 07/7/2016, nhận của Công ty M 290.000.000 đồng, cùng ngày A chuyển trả cho Nguyễn Ngọc T 450.000.000 đồng, số tiền còn lại A rút tiền mặt trả cho nhiều cá nhân (không xác định được) và tiêu xài cá nhận.

Tại Bản Kết luận giám định số 4586/C54-P5, ngày 05/10/2017 của Viện Khoa học hình sự, kết quả xác định:

Chữ ký đứng tên Nguyễn Thành I dưới mục “Đại Diện Bên Mua” trên Hợp đồng mua bán xe ô tô số 129/HĐMB-TNK/13 đề ngày 03/03/2015 so với chữ ký của Nguyễn Thành I được thu thập vào ngày 26/8/2016. Kết luận xác định đều do một người ký ra;

Chữ ký đứng tên Nguyễn Thành I dưới mục “ĐẠI DIỆN BÊN MUA, ĐẠI DIỆN BÊN B, ĐẠI DIỆN BÊN BÁN” trên các hợp đồng dưới đây so với chữ ký của Nguyễn Thanh A trên các tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu M2) được thu thập vào ngày 05/8/2017. Kết luận xác định đều do một người ký ra, Cụ thể như sau:

Hợp đồng đặt mua xe số 946 HĐĐM-TNK/15 đề ngày 02/12/2015 và hợp đồng đặt mua xe số 959HĐĐM-TNK/15 đề ngày 02/12/2015, ký kết giữa Công ty Toyota S với J;

Hợp đồng đặt mua bán xe ô tô số J02/12/15KD-HĐĐM đề ngày 07/12/2015 và hợp đồng mua bán số LC-1002016 đề ngày 19/6/2016, ký kết giữa Công ty K với Công ty J;

Hợp đồng đặt mua xe ô tô số LC-05/04/2016 đề ngày 14/4/2016; hợp đồng đặt mua số J 08/04/16KD-HĐMB đề ngày 25/4/2016; hợp đồng đặt mua số J 010/05/16KD-HĐMB đề ngày 24/5/2016; hợp đồng đặt mua số J 012/05/16KD- HĐMB đề ngày 26/5/2016, ký kết giữa Công ty L với Công ty J.

Hợp đồng mua bán xe ô tô số 0031/06/2016 đề ngày 30/6/2016 ký kết giữa Công ty M với Công ty J.

Hợp đồng mua bán xe ô tô số 0032/06/2016 đề ngày 30/6/2016 ký kết giữa Công ty N với Công ty J.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Thanh A thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. A khai nhận do kinh doanh thua lỗ và đang vay nợ của nhiều người không có khả năng chi trả nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Toàn bộ hoạt động mua bán xe ô tô chỉ do một mình A thực hiện và không trao đổi gì với I. I hoàn toàn không biết A đã ký kết bao nhiêu hợp đông, mua bán bao nhiêu xe với khách hàng. A mượn và sử dụng pháp nhân Công ty J của ông I nhằm để kinh doanh kiếm thêm thu nhập cho cá nhân và A cũng không trả bất kỳ khoản tiền nào hay lợi ích vật chất gì cho ông I.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 427/2020/HS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh A tù chung thân về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 02 tháng 3 năm 2018 .

Kiến nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xem xét theo thẩm quyền đối với hành vi của ông Nguyễn Thành I, ông Nguyễn Thành I, bà Đ ng Thanh B1 về dấu hiệu phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo Nguyễn Thanh A.

Áp dụng khoản 2 Điều 47; khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; các Điều 357, 468, 589 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Buộc bị cáo Nguyễn Thanh A bồi thường cho: Công ty K số tiền 200.500.000 (hai trăm triệu năm trăm ngàn) đồng, Công ty L số tiền 5.886.000.000 (năm tỷ tám trăm tám mươi sáu triệu) đồng, Công ty M số tiền 2.323.192.300 (hai tỷ ba trăm hai mươi ba triệu một trăm chín mươi hai ngàn ba trăm) đồng và Công ty N số tiền 2.251.000.000 (hai tỷ hai trăm năm mươi mốt triệu) đồng.

- Buộc những người có nghĩa vụ liên quan gồm, Trần Minh B, Ông Đinh Khắc G, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Ngọc U, Vũ Đình W, Phạm Xuân X, Chung Đăng C và Toyota Lý Thường Kiệt phải giao nộp lại số tiền đã nhận của bị cáo A để trả cho các bị hại cụ thể :

+ Ông Đinh Khắc G giao nộp số tiền 99.500.000 (chín mươi chín triệu năm trăm ngàn) đồng; ông Trần Minh B giao nộp số tiền 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng; Công ty Toyota Lý thường Kiệt giao nộp số tiền 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng để trả cho Công ty TNHH K.

+ Ông Nguyễn Ngọc T phải giao nộp 1.175.000.000 (một tỷ một trăm bảy mươi lăm triệu) đồng, Ông Đinh Khắc G phải giao nộp 415.000.000 (bốn trăm mười lăm triệu) đồng, bà Nguyễn Ngọc U phải giao nộp 250.000.000 (hai trăm năm mươi triệu) đồng, Vũ ngọc V phải giao nộp 250.000.000 (hai trăm năm mươi triệu) đồng, ông Vũ Đình W phải giao nộp 180.000.000 (một trăm tám mươi triệu) đồng, ông Phạm Xuân X phải giao nộp 100.000.000 (một trăm triệu) đồng để trả cho Công ty L.

+ Ông Chung Đăng C phải giao nộp 167.807.700 (một trăm sáu mươi bảy triệu tám trăm lẻ bảy ngàn bảy trăm) đồng, ông Phạm Xuân X phải giao nộp 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng; Nguyễn Ngọc T phải giao nộp 450.000.000 (bốn trăm năm mươi triệu) đồng để trả cho Công ty M.

+ Ông Phạm Xuân X phải giao nộp 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng; ông Nguyễn Ngọc T phải giao nộp 700.000.000 000 (bảy trăm triệu) đồng để trả cho Công ty N.

Các ông, bà: Trần Minh B, Ông Đinh Khắc G, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Ngọc U, Vũ ngọc V,Vũ Đình W, Phạm Xuân X, Chung Đăng C và Toyota Lý Thường Kiệt có quyền khởi kiện Nguyễn Thanh A về quan hệ giao dịch dân sự trong vụ kiện khác (nếu có yêu cầu).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/10/2020 ông Trần Minh B kháng cáo đề nghị không tuyên buộc ông Trần Minh B giao nộp số tiền 300.000.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 15.000.000 đồng. Ông cho rằng Ông Đinh Khắc G có nhờ ông cho mượn số tài khoản ngân hàng để người khác chuyển tiền cho Ông G, sau khi tiền vào tài khoản ông đã rút tiền ra và đưa cho Ông G chứ không liên quan gì đến số tiền trên.

Ngày 10/10/2020 ông Chung Đăng C kháng cáo đề nghị xem xét lại số tiền 167.000.000 đồng và án phí.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Ông Chung Đăng C là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo không đồng ý trả lại tiền cho bị hại số tiền 167.807.700 đồng và kháng cáo phần án phí dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Bản án sơ thẩm buộc ông Trần Minh B và ông Chung Đăng C trả lại số tiền mà bị cáo chiếm đoạt của bị hại là đúng quy định. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, sửa lại phần án phí dân sự sơ thẩm

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của ông Trần Minh B và Chung Đăng C nộp trong thời hạn quy định của pháp luật nên hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm ông Trần Minh B đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Căn cứ quy định Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự tòa án xét xử vắng mặt ông Trần Minh B.

[2] Xét phần trách nhiệm dân sự liên quan đến ông Trần Minh B và Chung Đăng C:

Bản án sơ thẩm buộc ông Trần Minh B phải giao nộp 300.000.000 đồng và ông Chung Đăng C phải giao nộp 167.807.700 đồng là có căn cứ. Vì số tiền bị cáo A chiếm đoạt của các bị hại và dùng tiền này chuyển khoản trả nợ cho nhưng người có liên quan trong đó có ông B, ông C, do vậy đây được xác định là vật chứng của vụ án nên buộc những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có trách nhiệm giao nộp để trả các bị hại.

Các ông Trần Minh B, Chung Đăng C có quyền khởi kiện bị cáo Nguyễn Thanh A và Ông Đinh Khắc G về quan hệ giao dịch dân sự trong vụ kiện khác.

Ngoài ra, ông Chung Đăng C và ông Trần Minh B còn kháng cáo phần án phí, Hội đồng xét xử sơ thẩm buộc ông Trần Minh B phải chịu 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng, ông Chung Đăng C phải chịu 8.390.385 (tám triệu ba trăm chín mươi ngàn ba trăm tám mươi lăm) đồng là không đúng. Số tiền 300.000.000 đồng của ông Trần Minh B và 167.807.700 đồng của ông Chung Đăng C phải giao nộp, đây được xác định là tiền tang vật của vụ án bị thu hồi để trả cho bị hại, do vậy các ông không phải chịu án phí. Nên cần sửa về phần án phí sơ thẩm đối với ông C và ông B.

[3] Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần Minh B và Chung Đăng C không phải chịu án phí theo quy định

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Minh B và ông Chung Đăng C.

Giữ nguyên quyết định bản án sơ thẩm số 427/2020/HS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về trách nhiệm dân sự, sửa một phần về phần án phí sơ thẩm.

Tuyên xử: Về phần dân sự liên quan đến kháng cáo của ông Trần Minh B và Chung Đăng C:

Áp dụng khoản 2 Điều 47; khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; các Điều 357, 468, 589 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Buộc ông Trần Minh B giao nộp số tiền 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng để trả cho Công ty TNHH K.

- Buộc ông Chung Đăng C phải giao nộp 167.807.700 (một trăm sáu mươi bảy triệu tám trăm lẻ bảy ngàn bảy trăm) đồng, để trả cho Công ty M.

Các ông Trần Minh B, Chung Đăng C có quyền khởi kiện bị cáo Nguyễn Thanh A, Ông Đinh Khắc G về quan hệ giao dịch dân sự trong vụ kiện khác (nếu có yêu cầu).

Kể từ ngày các bị hại có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Nguyễn Thanh A và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nêu trên chưa thực hiện hết khoản tiền trên, thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần Minh B, ông Chung Đăng C không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần Minh B và Chung Đăng C không phải chịu án phí phúc thẩm.

3. Các Quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trong A hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án ho c bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

322
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 241/2021/HS-PT ngày 22/04/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:241/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về