Bản án 241/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 241/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 31 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 326/2018/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2018 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 335/2018/QĐXXST–HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thu T, sinh năm 1998;

Địa chỉ: Ấp X, xã Q, huyện Đ, tỉnh Cà Mau. (có mặt)

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1984;

Địa chỉ: Ấp B, xã Q, huyện Đ, tỉnh Cà Mau. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 05/7/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyênđơn chị Lê Thu T trình bày:

Về hôn nhân: Chị với anh Nguyễn Văn Đ tự nguyện chung sống với nhau năm2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Đ. Trong thời gian chung sống anh Đ thiếu trách nhiệm, không quan tâm, lo lắng chăm sóc vợ con cả về vật chất lẫn tinh thần, được gia đình hai bên đã hòa giải và chị đã nhiều lần khuyên anh Đsống phải có trách nhiệm với vợ con nhưng anh Đ vẫn không thay đổi. Nay chị nhận thấy tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Chị T xác định vợ chồng có một con chung tên Nguyễn Quốc Th sinh ngày 21/4/2018 do chị đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con, yêu cầu anh Đ cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật, mỗi tháng cấp dưỡng một lần kể từ ngày xét xử sơ thẩm.

Về tài sản: Chị T xác định vợ chồng không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ: Chị T xác định vợ chồng không có nợ ai và cũng không ai nợ lại vợ chồng, nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

* Tại đơn xin phản tố bị đơn anh Nguyễn Văn Đ trình bày:

Về hôn nhân: Anh Đ xác định về quan hệ hôn nhân như chị T trình bày là đúng, về nguyên nhân mâu thuẫn dẫn đến ly hôn là không đúng, vì trong thời gian chung sống anh có trách nhiệm với vợ con cả về tinh thần và vật chất.

Về con chung: Anh Đ xác định vợ chồng có một con chung tên Nguyễn Quốc Th sinh ngày 21/4/2018 hiện đang sống cùng với bà ngoại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Đ.

 [2] Về hôn nhân: Chị T với anh Đ chung sống với nhau năm 2017, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quách Phẩm, huyện Đầm Dơi. Tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, thì mối quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thu T với anh Nguyễn Văn Đ được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Về nguyên nhân mâu thuẫn: Theo chị T xác định trong thời gian chung sống anh Đ không quan tâm, lo lắng gì đến chị và con, cha mẹ hai bên hòa giải hàn gắn cho anh chị nhưng anh Đ vẫn không thay đổi. Tại phiên tòa, chị T xác định không còn tình cảm với anh Đ và không thể tiếp tục chung sống với anh Đ được nữa nên vẫn giữ yêu cầu được ly hôn với anh Đ; đối với anh Nguyễn Văn Đ cho rằng trong quá trình chung sống anh quan tâm lo lắng cho vợ con nhưng anh Đ không ý kiến gì về việc hàn gắn mối quan hệ vợ chồng và cũng không phản đối việc chị T xin ly hôn với anh, mặt khác anh Đ cũng không tham gia việc hòa giải tại tòa và cũng không tham gia phiên tòa sơ thẩm, điều này cho thấy anh Đ đã không mong muốn hàn gắn mối quan hệ hôn nhân này nữa. Từ đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa chị T với anh Đ đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu của chị T cho chị T được ly hôn với anh Đ là phù hợp.

 [3] Về con chung: Chị T và anh Đ có một con chung tên Nguyễn Quốc Th sinh ngày 21/4/2018 do chị T đang nuôi dưỡng, khi ly hôn chị T yêu cầu được nuôi con; đối với anh Đ không ý kiến gì về việc nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi anh chị ly thân cháu Th do chị T nuôi dưỡng, mặt khác tại thời điểm này cháu Th chỉ được 06 tháng 10 ngày tuổi. Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 giao cháu Th cho chị T được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp; vấn đề cấp dưỡng cho con chị T yêu cầu anh Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật, định kỳ mỗi tháng cấp dưỡng một lầntính từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi cháu Th tròn 18 tuổi. Xét thấy việc cấp dưỡng cho con đối với người không trực tiếp nuôi con là nghĩa vụ nên yêu cầu này của chị T là có căn cứ được chấp nhận.

 [4] Về tài sản: Chị T xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; đối với anh Đ không có ý kiến gì về tài sản chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

 [5] Về nợ: Chị T xác định vợ chồng không có nợ ai và cũng không ai nợ lại vợ chồng nên không yêu cầu Toà án giải quyết; đối với anh Đ không có ý kiến gì về nợ chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

 [6] Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị T phải chịu 300.000đồng; án phí cấp dưỡng anh Đ phải chịu 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự;Căn cứ khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81 và Điều 82 của Luật Hôn nhân vàGia đình năm 2014; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thu T, cho chị Lê Thu T được ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Quốc Th sinh ngày 21/4/2018 do chị T được tiếp tục trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Văn Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Nguyễn Quốc Th mỗi tháng 695.000 đồng (sáu trăm chín mươi lăm nghìn đồng), việc cấp dưỡng thực hiện định kỳ mỗi tháng một lần, kể từ ngày 31/10/2018 cho đến khi cháu Th tròn 18 tuổi. Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Kể từ ngày chị T có đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền được thi hành án nếu như anh Đ chưa thi hành xong số tiền phải thi hành án thì phải chịu thêm phần lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án tại thời điểm thi hành án.

3. Về án phí:

+ Chị Lê Thu T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0010103 ngày 05/7/2018 của Chi cục Thi hành án dânsự huyện Đầm Dơi; chị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

+ Anh Nguyễn Văn Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (batrăm nghìn đồng); anh Đ chưa nộp án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Chị T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 241/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:241/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về