Bản án 239/2019/HS-ST ngày 14/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 239/2019/HS-ST NGÀY 14/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 254/2019/HS-ST ngày 01/10/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 256/QĐXX-ST ngày 03 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Đình N (tên gọi khác: không), sinh năm 1994 tại tỉnh Phú Thọ; ĐKNKTT: Khu 8, xã Đ, huyện H, tỉnh Phú Thọ; chỗ ở: lang thang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Phạm Quang C; Con bà: Hà Thị T (chết); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt quả tang ngày 22/6/2019; tạm giam ngày 02/7/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 40 phút ngày 22/6/2019 tổ công tác công an phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ trước cửa nhà số 27 ngõ 45 phố Trần Thái Tông, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội thì phát hiện Phạm Đình N có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện trong túi quần phía sau bên trái của N đang mặc có 01 gói nilong bên trong chứa tinh thể màu trắng. Tại chỗ, N khai tinh thể màu trắng trong túi nilong là ma túy đá, N mang đi để sử dụng. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của N 01 điện thoại di động Iphone 7 bên trong lắp sim số 0764040000 và 01 xe máy Liberty màu trắng BKS: 59H1-26646. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản thu giữ tang vật và đưa N về trụ sở công an để làm việc.

Tại cơ quan điều tra N khai nhận: Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 22/6/2019 N lên mạng zalo gặp và nói chuyện với một ngườ phụ nữ có tên tài khoản là “Hoang Ngan”. Người phụ nữ này rủ N cùng sử dụng ma túy, N đồng ý và hẹn gặp nhau tại đại chỉ số 27 ngõ 45 phố Trần Thái Tông, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Sau đó, N cất 01 gói ma túy trong quần sau bên trái rồi đến chỗ hẹn. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, N đến trước cửa số 27 ngõ 45 phố Trần Thái Tông, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội và đang chờ người phụ nữ có tài khoản zalo “Hoang Ngan” thì bị lực lượng công an phát hiện, bắt giữ cùng tang vật như đã nêu trên. Nguồn gốc gói ma túy công an thu giữ N khai là của người bạn xã hội tên M cho trước khi bị bắt 5 ngày.

Theo Bản kết luận giám định số 4114/KLGĐ-PC09 ngày 01/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilong là ma túy loại Methaphetamine, khối lượng là 0,212 gam.

Xét nghiệm ma túy đối với Phạm Đình N cho kết quả dương tính.

Đối với đối tượng tên M và người phụ nữ có tài khoản zalo “Hoang Ngan” do N không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra làm rõ.

Chiếc điện thoại di động Iphone 7 thu giữ của N là tài sản của N, được dùng để liên lạc với đối tượng có tài khoản zalo “Hoang Ngan” và rủ nhau cùng đi sử dụng ma túy.

Chiếc xe máy Piaggio Liberty, màu trắng, BKS: 59H1 - 26646 qua xác minh xe có số khung: RP8M73100CV109692, số máy M731M4044104 là nguyên thủy, xe không nằm trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng, đăng ký xe máy mang tên Nguyễn Thị Phương U (sinh năm 1975; trú tại: số 416/6/6 đường L, phường 5, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh). Xác minh tại công an phường 5, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh cung cấp chị Nguyễn Thị Phương U trước đây sống tại địa phương nhưng đã chuyển nhà đi nơi khác từ năm 2016, hiện chị U làm gì, ở đâu công an không nắm được. N khai chiếc xe máy trên mượn của bạn xã hội tên T, N không rõ tên tuổi địa chỉ. Do đó, cơ quan điều tra đã tách phần hồ sơ, tài liệu liên quan đến chiếc xe trên để xác minh, xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 256/CT-VKSCG ngày 27/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy truy tố Phạm Đình N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Phạm Đình N từ 15 đến 18 tháng tù.

Miễn phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì chứa ma túy đã niêm phong Tịch thu, phát mại, sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Iphone 7 thu giữ của bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Đình N khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra. Bị cáo thừa nhận Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Cầu Giấy, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với những lời khai của bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập, có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 20 giờ 40 phút ngày 22/6/2019 tại trước cửa nhà số 27 ngõ 45 phố Trần Thái Tông, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, Phạm Đình N đã có hành vi tàng trữ 0,212 gam ma túy Methaphetamine để sử dụng, đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma tuý là chất độc dược huỷ hoại sức khoẻ con người và gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, là nguồn gốc gây nên nhiều tội phạm khác. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức được tác hại của ma túy, nhưng vẫn cố tình tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi đó của bị cáo đã xâm phạm chế độ quản lý độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự công cộng.

Xét nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng là đối tượng nghiện ma túy. Vì vậy, cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng hình phạt tù nghiêm khắc nhằm mục đích giáo dục, răn đe, tạo điều kiện cho bị cáo cai nghiện ma túy và phòng ngừa chung trong cộng đồng.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Phạm Đình N không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn, hối cải nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, nên miễn phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Methaphetamine là chất ma túy bị cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Chiếc điện thoại di động thu giữ của bị cáo là phương tiện liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu, phát mại, sung quỹ Nhà nước.

[7] Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt : Phạm Đình N 22 (hai mƣơi hai) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang 22/6/2019.

Hình phạt bổ sung: Miễn phạt tiền đối với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong có chữ ký của đối tượng Phạm Đình N và chữ ký của giám định viên Trần Ngọc C trên mép dán phong bì niêm phong có chứa: tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilong là ma túy loại methaphetamine, khối lượng 0,212 gam.

- Tịch thu, phát mại, sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone 7 màu vàng nhạt, bên trong có sim số: 076404000. Điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng.

Hiện các vật chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy theo Biên bản giao nhận vật chứng số 01 GN/THA-CA ngày 02/10/2019.

* Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Mục I Danh mục án phí, lệ phí Tòa án năm 2009; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 3/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331; 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bị cáo Phạm Đình N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 239/2019/HS-ST ngày 14/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:239/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về