TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 239/2019/HSPT NGÀY 28/05/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 162/2019/TLPT-HS ngày 16/4/2019 đối với bị cáo Từ Ngọc T, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2019/HS-ST ngày 12/3/2019 của Tòa án nhân dân Quận 6.
Bị cáo có kháng cáo: TỪ NGỌC T; giới tính: Nam; sinh ngày 13/8/1996; nơi sinh tại tỉnh Lâm Đồng; thường trú: 69/31 đường H, tổ B, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; cư trú: 14 đường A, tổ C, ấp B, xã V, huyện Bình Chánh, Tp.Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 00/12; con ông Từ Ngọc C và bà Trần Tuyết M; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; tạm giam: 17/9/2018. (có mặt)
Ngoài ra còn có bị hại Trần Thị Ngọc H, Trần Ngọc S không có kháng cáo.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ ngày 17/9/2018, Đ (không rõ lai lịch) gọi điện thoại rủ Từ Ngọc T đi cướp giật tài sản bán lấy tiền tiêu xài, Từ Ngọc T đồng ý. Từ Ngọc T điều khiển xe mô ô biển số 59D1-989.45 chạy đến đường L, Phường S, Quận M gặp Đ. Tại đây, Đ đưa cho Từ Ngọc T 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo, rồi kêu Từ Ngọc T điều khiển xe mô tô chạy theo Đ làm nhiệm vụ cản địa và cất giữ tài sản giật được, Đ sẽ là người giật tài sản.
Đến 14 giờ cùng ngày, Từ Ngọc T và Đ mỗi người chạy 01 chiếc xe vào hẻm 377 đường P, khi đến trước nhà số 377/61 đường P, phường N, Quận M, Tp.Hồ Chí Minh thì cả hai phát hiện ông Trần Ngọc S đang ngồi uống cà phê và trên tay trái cầm chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7, vỏ màu vàng. Đ điều khiển xe chạy áp sát ông Trần Ngọc S, dùng tay trái giật chiếc điện thoại của ông Trần Ngọc S, rồi điều khiển xe tẩu thoát. Ngay lậy tức, ông Trần Ngọc S tri hô và đuổi theo, thấy vậy Từ Ngọc T điều khiển xe chạy theo phía sau làm nhiệm vụ cản địa để Đ tẩu thoát. Trên đường bỏ chạy, Đ đưa chiếc điện thoại vừa cướp giật được của ông Trần Ngọc S cho Từ Ngọc T cất giữ.
Khoảng 14 giờ 20 phút cùng ngày, khi chạy đến chợ PL, đường số 3, phường E, Quận 6, Tp.Hồ Chí Minh, Đ phát hiện bà Trần Thị Phương H đang đi bộ và trên cổ bà Hồng đeo sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng, Đ điều khiển xe quay lại, Từ Ngọc T cũng điều khiển xe bám theo Đ. Khi bà Trần Thị Phương H đi bộ đến sạp số 288 chợ PL, Đ điều khiển xe chạy áp sát bà Trần Thị Phương H, dùng tay trái giựt đứt sợi dây chuyền trên cổ bà Trần Thị Phương H. Lúc này, con bà Trần Thị Phương H là anh Trương Thái H1 nghe tiếng bà Trần Thị Phương H tri hô đã điều khiển xe đuổi theo Đ. Thấy bị truy đuổi, Từ Ngọc T liền điều khiển xe mô tô chạy lạng lách phía trước anh Trương Thái H1 nhằm ngăn cản không cho anh Trương Thái H1 truy đuổi để Đ tẩu thoát, nhưng khi chạy đến trước nhà số 76/8 đường H, phường E, Quận 6 thì anh Trương Thái H đuổi kịp và bắt giữ được Từ Ngọc T giao Công an phường E, Quận 6 để xử lý. Riêng Đ cầm sợi dây chuyền của bà Trần Thị Phương H chạy thoát.
Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 6, bị cáo Từ Ngọc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.
Kết luận định giá tài sản số 111 ngày 02/11/2018 của Hội đồng định gía tài sản trong tố tụng hình sự Quận 6, kết luận: Chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7, trị giá 3.000.000 đồng.
Kết luận định giá tài sản số 1527 ngày 21/9/2018 của Hội đồng định gía tài sản trong tố tụng hình sự Quận 6, kết luận: Sợi dây chuyền vàng và mặt dây chuyền vàng, trị giá 6.460.000 đồng.
Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2019/HSST ngày 12/3/2019 của Tòa án nhân dân Quận 6, Tp.Hồ Chí Minh đã tuyên bố bị cáo Từ Ngọc T phạm tội “Cướp giật tài sản” và áp dụng điểm d Khoản 2 Điều 171, điểm s Khoản 1 Điều 51, điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Từ Ngọc T 04 năm tù.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo. Ngày 19/3/2019, bị cáo Từ Ngọc T có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo Từ Ngọc T giữ nguyên nội dung kháng cáo, xin được giảm nhẹ mức hình phạt. Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, nói lời sau cùng bị cáo chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau: Với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo Từ Ngọc T tại phiên tòa phúc thẩm, có đủ căn cứ xác định: Bị cáo cùng với đồng phạm sử dụng xe mô tô 02 lần thực hiện hành vi cướp giật tài sản của người khác và bị cáo bị bắt quả tang, đo đó Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo phạm tội “Cướp giật tài sản” và áp dụng điểm d Khoản 2 Điều 171, điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo 04 năm tù là có căn cứ, đúng pháp luật. Mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyến đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không bổ sung được tình tiết giảm nhẹ mới, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 6.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong ngày 17/9/2018, bị cáo Từ Ngọc T cùng với đồng phạm tên Đ đã sử dụng xe mô tô đi cướp giật tài sản của người khác để bán lấy tiền tiêu xài. Cụ thể, bị cáo sử dụng xe mô tô biển số 59D1-989.45 và Đen sử dụng 01 xe mô tô (không rõ biển số) và đã thực hiện hành vi cướp giật chiếc điện thoại đi động hiệu Samsung Galaxy A7, trị giá 3.000.000 đồng của ông Trần Ngọc S và tẩu thoát. Sau khi cướp giật tài sản của ông Trần Ngọc S, bị cáo và đồng phạm tiếp tục thực hiện hành vi cướp giật sợi dây chuyền vàng của bà Trần Thị Phương H, trị giá 6.460.000 đồng thì bị truy đuổi bắt quả tang. Với hành vi phạm tội như trên của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.
Sau xét xử sơ thẩm, ngày 19/3/2019, bị cáo Từ Ngọc T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Từ Ngọc T xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Khi xét xử vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ nội dung, các tình tiết của vụ án và nhân thân của bị cáo để xem xét áp dụng đúng, đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đó là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đồng thời Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, đó là chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn từ 14 giờ đến 14 giờ 20 cùng ngày, bị cáo và đồng phạm đã thực hiện liên tiếp 02 vụ cướp giật tài sản, thể hiện ý thức phạm tội rất cao, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội từ 02 lần trở lên và xử phạt bị cáo mức án 04 năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ, động cơ phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra và nhân thân của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không bổ sung được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 6. Đây cũng là lập luận để chấp nhận quan điểm đề nghị giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Các nội dung khác của Bản án hình sự sơ thẩm do không bị kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Do không chấp nhận kháng cáo, nên bị cáo Từ Ngọc T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Từ Ngọc T, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 15/2019/HSST ngày 12/3/2019 của Tòa án nhân dân Quận 6.
- Áp dụng điểm d Khoản 2 Điều 171; điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
Xử phạt bị cáo Từ Ngọc T 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/9/2018.
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án, lệ phí Tòa án:
Bị cáo Từ Ngọc T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các nội dung khác của Bản án hình sự sơ thẩm do không bị kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 239/2019/HSPT ngày 28/05/2019 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 239/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về