TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 239/2017/HSPT NGÀY 29/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29/11/2017 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 214/2017/HSPT ngày 27/10/2017 đối với bị cáo Nguyễn Thanh H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 113/2017/HSST ngày 26/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
Bị cáo có kháng cáo: NGUYỄN THANH H, sinh ngày 11/7/1997 tại Đà Nẵng; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Số 6x đường N, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Không; Con ông Nguyễn Thanh T (s) và bà Nguyễn Thị Kim P (s); Tiền sự: Chưa; Tiền án: Ngày 16/12/2015, bị Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xử phạt 30 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Bị cáo bị bắt giam ngày 19/6/2017. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 19/6/2017, tại khu vực Kiệt 4xx đường H, phường C, quận T, thành phố Đà Nẵng, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê bắt quả tang Nguyễn Thanh H đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ tang vật gồm: 01 gói ni lông có kích thước 05 x 05cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng, niêm phong ký hiệu G; 01 nỏ thủy tinh H dùng để sử dụng ma túy; 01 xe mô tô hiệu Yamaha loại MIO màu đen, BKS 43B1-029xx.
Tại Kết luận giám định số 386/GĐ-MT ngày 23/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định có trọng lượng là 3,602gam, có thành phần Methamphetamine.
Tại Kết luận giám định bổ sung số 420/C45C(Đ4) ngày 28/6/2017 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Chất rắn màu trắng (dạng tinh thể) đựng trong 01 (một) gói ni lông kí hiệu G gửi giám định có hàm lượng Methamphetamine là 72,64%.
Như vậy, trọng lượng Methamphetamine thu giữ của Nguyễn Thanh H là 2,616 gam.
Qua điều tra xác định: Khoảng 20 giờ ngày 19/6/2017, H mua 01 gói ma túy đá của T (không xác định được họ tên, địa chỉ) với giá 4.000.000đ tại khu vực đầu cầu R thuộc quận S, thành phố Đà Nẵng. Sau đó, H cất giấu gói ma túy vừa mua được cùng với nỏ thủy tinh trong người và điều khiển xe mô tô 43B1 – 029.xx đến Kiệt 4xx H, thành phố Đà Nẵng gặp B (không xác định được họ tên, địa chỉ) để cùng sử dụng nhưng chưa gặp được B thì bị bắt quả tang. Ngoài ra, H còn khai nhận trước đó có mua ma túy của T 02 lần, mỗi lần mua 500.000đ về để sử dụng. Do không thu được ma túy đá nên không đủ cơ sở để kết luận xử lý. Qua thử test, Nguyễn Thanh H dương tính với ma túy tổng hợp.
Tại Bản án sơ thẩm số 113/2017/HSST ngày 26/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Căn cứ Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015; Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016; Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng khoản 3 Điều 7 của Bộ luật hình sự 2015; Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016; Công văn số 327/TANDTC-PC ngày 07/11/2016 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự 2015.
Áp dụng Khoản 1 Điều 194; Điểm p Khoản 1 Điều 46; điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự 1999; Khoản 1 Điều 249 BLHS 2015.
Xử phạt: Nguyễn Thanh H 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 19/6/2017.
Ngoài ra, Bản án còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo bản án.
Ngày 08/10/2017, bị cáo Nguyễn Thanh H có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm nặng, xin cứu xét để vụ án được đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh H có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và nằm trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ. Xét nội dung đơn kháng cáo của bị cáo thì thấy Bản án sơ thẩm số 113/2017/HSST ngày 26/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đã xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Bản án sơ thẩm cũng đã xem xét vai trò, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H 03 năm tù là phù hợp, không nặng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thanh H cũng thừa nhận Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự là đúng tội và bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét kháng cáo của bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo,
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thanh H cũng đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó HĐXX có đủ cơ sở để xác định: Vào khoảng 20 giờ 45 phút ngày 19/6/2017, tại Kiệt 4xx đường H, thành phố Đà Nẵng, bị cáo Nguyễn Thanh H đã có hành vi tàng trữ 3,602 gam ma túy tổng hợp có thành phần Methamphetamine với hàm lượng là 72,64% trong người thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê phát hiện bắt quả tang. Do đó, Bản án sơ thẩm số 113/2017/HSST ngày 26/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đã xét xử bị cáo Nguyễn Thanh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.
[2]. Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh H: Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, đã có tiền án về tội “Cướp giật tài sản”. Phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm. Do đó, đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm, cần thiết cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình, xử phạt bị cáo mức án 03 năm tù là phù hợp, không nặng. Các quyết định của Bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật. Do đó, căn cứ vào Điểm a Khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ y mức hình phạt của bị cáo mà án sơ thẩm đã xét xử như quan điểm của đại diểm Viện kiểm sát tại phiên tòa. Tuy nhiên, án sơ thẩm áp dụng Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015; Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 và các công văn hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao vào bản án là không phù hợp. Vì các Nghị quyết này đã được thay đổi bằng Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội. Nên HĐXX điều chỉnh lại cho phù hợp.
[3]. Bị cáo Nguyễn Thanh H phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
[4]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh H, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Áp dụng Khoản 1 Điều 194; Điểm p Khoản 1 Điều 46; điểm g Khoản 1 Điều 4 BLHS 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14; Khoản 3 Điều 7; Khoản 1 Điều 249 BLHS 2015.
Xử phạt: Nguyễn Thanh H 03 (Ba) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 19/6/2017.
2. Về án phí: Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Nguyễn Thanh H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 239/2017/HSPT ngày 29/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 239/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về