Bản án 238/2018/HS-PT ngày 12/06/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 238/2018/HS-PT NGÀY 12/06/2018 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 12/6/2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 191/2018/TLPT-HS, ngày 09/5/2018 đối với bị cáo Hoàng Văn T do có kháng cáo của bị cáo T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2018/HS-ST ngày 05/04/2018 của Tòa án nhân dân Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo: Hoàng Văn T (Tên gọi khác: “không”); giới tính: nam; sinh năm: 1986, tại tỉnh Hà Nam; nơi đăng ký thường trú: Tổ 1, phố DN, thị trấn DP, huyện X, tỉnh Ninh Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: không; Con ông Hoàng Văn H - sinh năm 1956 và bà Phạm Thị D (đã chết); Bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: không; tiền án: Không;

Bị bắt, tạm giam ngày 27/11/2017. (Có mặt tại phiên tòa)

- Bị hại ông Vũ Xuân T và người liên quan Nguyễn Quốc V không kháng cáo và không liên quan đến việc kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn T nên Hội đồng xét xử không triệu tập đến phiên tòa phúc thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu năm 2014, Hoàng Văn T được nhận vào làm nhân viên cho tiệm cầm đồ tại địa chỉ số 11 DDN, phường Q, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh do ông Vũ Xuân T làm chủ. Ông T giao cho T trông coi tiệm cầm đồ, nhận tài sản do khách cầm cố, trả tiền thế chấp và quản lý tài sản do khách cầm cố. Hàng ngày ông T giao cho T từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng để trả tiền thế chấp cho khách hàng.

Đến ngày 23/8/2014, do không có tiền tiêu xài nên T lấy chiếc xe AirBlade biển số 54L1-1995 của ông T đem đến tiệm cầm đồ AH số 4/11A HP, phường R Quận T cầm lấy 18.000.000 đồng. Sang ngày 24/8/2014, T lấy hết số tiền ông T giao hàng ngày 25.000.000 đồng và lấy luôn chiếc xe Exciter biển số 76C1- 116.49 của khách cầm cố cùng với 01 chiếc máy Ipad 4, 01 điện thoại di động Iphone 5 của ông T rồi bỏ đi.

Đến 09 giờ ngày 25/8/2014, T chạy xe Exciter đến nhà bạn là Phan Tuấn A tại số 06, khu phố 6, phường Bình Hưng Hòa, quận Bình Tân giao chiếc xe Exciter cho AT nhờ trả lại cho ông T, đồng thời T điện thoại nhờ Lưu Văn Dũng (là người cùng làm tại tiệm cầm đồ) thu dọn quần áo, đồ dùng cá nhân đưa lại cho AT. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày (25/8/2014), AT nhờ bạn là Đỗ Văn Huy đến gặp Dũng lấy quần áo dùm cho T. Lúc này, ông T phát hiện Hoàng Văn T đã lấy tài sản của mình bỏ trốn nên truy tìm qua Dũng, Huy gặp Phan Tuấn A, thu hồi chiếc xe Exciter AT đang giữ và trình báo cơ quan công an.

Đến ngày 26/8/2014, ông T phát hiện chiếc xe AirBlade của mình tại tiệm cầm đồ AH nên báo Công an phường Y, Quận E hỗ trợ thu hồi xe. Anh Nguyễn Quốc V chủ tiệm cầm đồ AH khi cầm xe cho Hòang Văn T không biết T cầm xe do phạm tội mà có, đã giao nộp lại chiếc xe AirBlade.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận E xác định Hoàng Văn T có hành vi chiếm đoạt tài sản của ông Vũ Xuân T gồm 25.000.000 đồng và 01 chiếc xe AirBlade, 01 máy Ipad 4, 01 điện thoại Iphone 5 qua định giá có tổng trị giá 37.500.000 đồng, do đó ngày 02/4/2015 đã ra quyết định khởi tố vụ án, bị can, lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Hoàng Văn T về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ngày 02/8/2015 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận E ra quyết định truy nã đối với T.

Đến ngày 27/11/2017, Hoàng Văn T bị Công an huyện Đông Anh Thành phố Hà Nội bắt giữ theo lệnh truy nã, chuyển giao Công an Quận E xử lý.

Tại cơ quan điều tra, Hoàng Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Toàn bộ số tiền, tài sản T chiếm đoạt được của ông T, T đã tiêu thụ, sử dụng cá nhân hết và bỏ trốn.

Tại bản kết quả định giá trong tố tụng hình sự số 152/HĐĐG ngày 17/12/2014 Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận E kết luận:

- Xe gắn máy Honda BA, BS 54L1 - 1995 (Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 000766) đã qua sử dụng, tỷ lệ mới 70%, giá 25.000.000 đồng/chiếc.

- Điện thoại di động Iphone 5, đã qua sử dụng, tỷ lệ mới 70%, giá 6.000.000 đồng/chiếc (Sáu triệu đồng).

- Máy tính bảng Ipad 4, đã qua sử dụng, tỷ lệ mới 70%, giá 6.500.000 đồng/chiếc (Sáu triệu năm trăm nghìn đồng).

Đối với Phan Tuấn A có hành vi nhận giữ xe máy Exciter để trả lại bị hại Thủy đã hoàn trả xe cho chủ nên không vi phạm pháp luật. Lưu Văn Dũng, Đỗ Văn Huy lấy quần áo dùm cho T không có dấu hiệu giúp cho T bỏ trốn.

Anh Nguyễn Quốc V kinh doanh tiệm cầm đồ có giấy phép, tuy cầm xe AirBlade cho Hoàng Văn T không phải chủ sở hữu nhưng có ghi nhận thông tin cá nhân của T, T che giấu về nguồn gốc tài sản nên không có dấu hiệu tiêu thụ xe gian.

Vật chứng: 25.000.000 đồng (không thu hồi được).

- 01 xe máy hiệu AirBlade biển số 54L1-1995 (đã thu hồi trả lại ông T).

- Giấy biên nhận cầm xe AirBlade (lưu trong hồ sơ).

- 01 máy Ipad 4; 01 điện thoại Iphone 5 (không thu hồi được).

- Đồ dùng cá nhân của Hoàng Văn T: 02 áo sơ mi; 01 áo thun; 02 quần jean. Công an Quận E đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự Quận E;

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia của bị cáo.

Ngoài ra Công an Quận E còn tạm giữ của Phan Tuấn A một số đồ vật: 02 điện thoại Nokia, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ ATM, 04 chìa khóa, do không liên quan đến vụ án nên Công an đã trả lại cho AT.

Tại bản Cáo Trạng số 25/CTr-VKS ngày 06 tháng 02 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Hoàng Văn T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 điều 140 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2018/HS-ST ngày 05/4/2018 của Tòa án nhân dân Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 điều 140; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33; Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009;

Xử phạt Hoàng Văn T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ 27 tháng 11 năm 2017.

Ngoài ra, Bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 09/4/2018, bị cáo Hoàng Văn T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Hoàng Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã xác định và vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đưa ra ý kiến phát biểu: Sau khi xem xét tất cả lời khai, tình tiết trong hồ sơ vụ án, nhận thấy bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội và mức án phù hợp với tính chất cũng như mức độ của hậu quả đã xảy ra. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo và y án sơ thẩm.

Bị cáo Hoàng Văn T không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 05/4/2018 Tòa án nhân dân Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm, đến ngày 09/4/2018, bị cáo Hoàng Văn T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đơn kháng cáo của bị cáo được lập trong trong thời hạn luật định nên hợp lệ.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, từ đó có đủ cơ sở để kết luận: Sau khi được bị hại ông Vũ Xuân T giao tiền và tài sản để quản lý công việc, Hoàng Văn T đã có hành vi lợi dụng sự tin tưởng của ông T để chiếm đoạt số tiền 25.000.000 đồng cùng số tài sản bao gồm: 01 chiếc xe gắn máy hiệu Honda AirBlade, 01 máy tính bảng hiệu Ipad 4, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5, qua định giá số tài sản này có tổng trị giá là 37.500.000 đồng. Tổng trị giá tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt là 62.500.000 đồng.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 140 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009. Tòa án nhân dân Quận E đã xét xử bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm d khoản 2 điều 140 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về việc áp dụng hình phạt đối với bị cáo T:

Trong vụ án này, bị cáo chỉ vì tư lợi cá nhân đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, nên cần xét xử một mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, nhằm mục đích giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo đó là: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, để áp dụng điểm p khoản 1 và khoản 2 điều 46 của Bộ luật hình sự, song cấp sơ thẩm còn chưa xem xét tình tiết sau khi phạm tội bị cáo đã hiến thận để cứu người được Bệnh viện đa khoa PX xác nhận và bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, theo quy định tại khoản 2 điều 46 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu, riêng lời khai bị cáo có cha là thương binh nhưng bị cáo không cung cấp được chứng cứ để xác định, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy mức án 03 năm tù đối với bị cáo là quá nghiêm khắc, nên chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo để giảm cho bị cáo một phần hình phạt và sửa bản án sơ thẩm.

[4] Lập luận trên đây cũng là căn cứ để không chấp nhận một phần quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa, đồng thời chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo không phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn T và sửa bản án sơ thẩm số 26/2018/HS-ST ngày 05/4/2018 của Tòa án nhân dân Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

3. Áp dụng điểm d khoản 2 điều 140; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33; Điều 45 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009;

Xử phạt: Hoàng Văn T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27 tháng 11 năm 2017.

4. Áp dụng Điều 98, 99 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và áp dụng Điều 22 và 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quyết định về mức thu, miễn giám, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án ngày 30/12/2016, cùng danh mục án phí, lệ phí toà án;

Bị cáo Hoàng Văn T không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 238/2018/HS-PT ngày 12/06/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:238/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về