TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 236/2020/HSST NGÀY 20/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:
214/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 226/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Chí T, sinh năm 1997 tại tỉnh Đồng Tháp; địa chỉ thường trú: Ấp L, xã L, huyện H, tỉnh Đồng Tháp; chỗ ở: Khu phố 2, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; con ông Nguyễn Văn , sinh năm 1965 và bà Huỳnh Thị P, sinh năm 1967; bị cáo có 04 chị em, lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất là bị cáo; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/6/2020 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 03/10/2003, tại tỉnh Bình Dương; địa chỉ thường trú: Số 58/8, khu phố 1, phường Đ, thành phố T, tỉnh Bình Dương; chỗ ở: Khu phố 2, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; con ông Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1977 và bà Lê Thị L, sinh năm 1977; bị cáo có 04 chị em, lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ nhất sinh năm 2014; bị cáo chưa có chồng, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/6/2020 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Thị Thu H: Ông Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1977 và bà Lê Thị L, sinh năm 1977; địa chỉ thường trú: Số 58/8, khu phố 1, phường Đ, thành phố T, tỉnh Bình Dương (cha mẹ ruột). Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Thu H: Ông Cao Ngọc L – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Dương. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ ngày 18/6/2020, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an thị xã Bến Cát phối hợp với Công an phường Ttiến hành tuần tra phát hiện Nguyễn Thế K, Nguyễn Khánh L và Nguyễn Văn Đ đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đá (Methamphetamine) tại khu vực vườn cao su thuộc khu phố 2, phường T, thị xã B nên mời về trụ sở làm việc. Tiến hành lấy lời khai, K, L, Đ khai nhận nguồn ma túy có để sử dụng là mua của Nguyễn Chí T và Nguyễn Thị Thu H. Lực lượng Công an đã tiến hành kiểm tra phòng trọ số 04 nhà trọ B, khu phố 2, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương, nơi T và H thuê ở, phát hiện thu giữ: 01 gói nylon hàn kín kích thước 0,1 x 0,1cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng bên trong hộp sắt hình vuông; 03 gói nylon hàn kín kích thước 0,1 x 0,2cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng trong hộp quẹt diêm bỏ trong bóp thổ cẩm màu đỏ; 01 gói nylon hàn kín kích thước 1,5 x 0,2cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng trong balo bằng vải màu đen; 01 bóp thổ cẩm màu đỏ; 01 hột quẹt diêm; 01 balo bằng vải màu đen.
Tại Cơ quan điều tra Công an thị xã Bến Cát, T và H khai: T và H có tình cảm nam nữ và thuê phòng sống chung với nhau tại nhà trọ B, thuộc khu phố 2, phường T, thị xã Btừ đầu tháng 4/2020. Cả hai đều nghiện ma túy đá và không có nghề nghiệp ổn định. Để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng, T và H đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, cụ thể như sau: Khoảng đầu tháng 6/2020, T có quen biết với người thanh niên tên T (không rõ nhân thân, lai lịch), T kêu T bán ma túy cho T rồi T sẽ cho tiền và ma túy sử dụng thì T đồng ý. Cách thức mua bán ma túy như sau: T sẽ phân chia ma túy thành sẵn các gói, mỗi lần đưa cho T khoảng từ 04 đến 05 gói ma túy với một giá tiền nhất định đem về phòng cất giấu để bán cho các đối tượng nghiện ma túy. Nếu T bán được giá cao hơn thì được hưởng phần tiền chênh lệch này. Khi có người cần mua ma túy đến gặp T thì T sẽ chỉ dẫn đi đến phòng trọ của T để mua. Khoảng 17 giờ ngày 12/6/2020, T đi bộ một mình đến khu vực nhà trọ Huỳnh Thị Thu, thuộc khu phố 2, phường T gặp T thì được T cho 01 gói ma túy mang về để sử dụng.
Sau khi mang về, T cất giấu gói ma túy vào hộp sắt để trên bàn, đặt ở góc phòng bên phải hướng từ cửa nhìn vào bên trong phòng, T chưa sử dụng mà dự định khi có người mua sẽ bán lại. Khoảng 18 giờ ngày 17/6/2020, T tiếp tục đi bộ một mình đến khu vực nhà trọ H gặp T1. Tại đây, T1 đưa cho T 04 gói ma túy đá đem về cất giấu để bán cho các đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 21 cùng ngày, Nguyễn Thế K đến gặp T1 hỏi mua ma túy thì được T1 chỉ dẫn đến gặp T để mua. K đi đến phòng trọ của T thì được T trực tiếp bán cho 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng. Sau đó, T mang 03 gói ma túy đá còn lại và 200.000 đồng qua đưa lại cho T1. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 18/6/2020, T kêu H cùng đi bộ qua khu vực nhà trọ H gặp T1 để lấy ma túy đá về cất giấu bán cho người khác, H đồng ý. Tại đây, T1 đưa cho T 05 gói ma túy đá đem về cất giấu để tiếp tục bán cho các đối tượng nghiện ma túy. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Nguyễn Văn C là bạn bè ngoài xã hội của T đến phòng T và H chơi thì T có lấy ra 01 gói ma túy và lấy một ít đem ra sử dụng cùng với C. Số ma túy còn lại chưa sử dụng hết, T đưa cho H hàn kín lại và cất giấu vào trong balo treo ở trên vách tường bên phải. Riêng 04 gói ma túy còn nguyên, H đem cất giấu trong hộp diêm để trong bóp thổ cẩm màu đỏ, treo sát vách tường bên phải theo hướng từ cửa phòng nhìn vào. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, Nguyễn Thế K, Nguyễn Văn Đ và Nguyền Khánh L cùng đi đến phòng trọ của T và H để mua ma túy. Tại đây, Đ hỏi T mua 200.000 đồng ma túy đá, T đồng ý bán và kêu H lấy 01 gói ma túy đá trong bóp thổ cẩm màu đỏ đưa cho Đ, Đ đưa tiền cho T rồi cùng K và L đem ma túy đến khu vực vườn cao su thuộc khu phố 2, phường Tvừa sử dụng xong thì bị lực lượng Công an phát hiện. Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, khi T, H và C đang ở trong phòng trọ số 04 nhà trọ B thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện thu giữ 05 gói ma túy đá cất giấu trong phòng.
Theo Kết luận giám định số 369/MT-PC09 ngày 25/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, xác định: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có trọng lượng: 0,5758 gam, loại Methamphetamine.
Các đối tượng Nguyễn Văn C, Nguyễn Thế K, Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Khánh đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 20/7/2020, Công an thị xã Bến Cát đã quyết định xử phạt hành chính phạt tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đối với C, K, Đ và L.
Quá trình điều tra, Nguyễn Chí T và Nguyễn Thị Thu H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai phù hợp với tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. T khai, đối với gói ma túy đá mà T bán cho Nguyễn Thế K ngày 17/6/2020 thì H không biết.
Đối với 02 gói ma túy đá (không rõ trọng lượng) mà K, Đ mua của T và H vào các ngày 17/6/2020 và 18/6/2020, K, Đ và L khai đã sử dụng hết.
Tại bản Cáo trạng số 223/QĐ-KSĐT ngày 16 tháng 10 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Chí T về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và bị cáo Nguyễn Thị Thu H về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Chí T về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và bị cáo Nguyễn Thị Thu H về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Chí T từ 07 năm đến 08 năm tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị tịch thu tiêu hủy:
03 (ba) Bì thư niêm phong ghi số: 369/M1/PC09, 369M2/PC09 và 369M3/PC09 niêm phong có chữ ký của Nguyễn Chí T, Nguyễn Thị Thu H (người chứng kiến), Nguyễn Thành Tâm (cán bộ giao mẫu), Trần Hoàng Huy (Giám định viên/Trợ lý giám định) và hình dấu đỏ niêm phong của KTHS-Công an tỉnh Bình Dương. Khối M2=0,1624 gam, M3=0,2120 gam loại Methamphetamine; M1 phục vụ hết cho công tác giám định.
01 (một) bóp thổ cẩm màu đỏ;
01 (một) hộp quẹt diêm;
01 (một) balo màu đen.
Trong quá điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo H, người bào chữa cho bị cáo H không có ý kiến về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát; nội dung bản Cáo trạng số 223/QĐ- KSĐT ngày 16 tháng 10 năm 2020 và Kết luận giám định số 369/MT-PC09 ngày 25/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.
Tại phiên tòa, các bị cáo không đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận gì để đối đáp với Kiểm sát viên về nội dung luận tội của Kiểm sát viên.
Người bào chữa của bị cáo H trình bày: Không tranh luận về tội danh và khung hình phạt mà Viện Kiểm sát đã truy tố. Tuy nhiên, luật sư cho rằng bị cáo H có nhân thân tốt, chưa thành niên nên tâm lý chưa có sự nhận thức đầy đủ về pháp luật. Người bào chữa của bị cáo H đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt nhẹ nhất đối với bị cáo H để bị cáo H có cơ hội sớm đoàn tụ gia đình, tiếp tục học tập để trở thành công dân tốt.
Bị cáo H thống nhất trình bày của người bào chữa và không trình bày bổ sung thêm vấn đề gì.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo H trình bày: Thống nhất phần trình bày người bào chữa của bị cáo H và không trình bày bổ sung thêm vấn đề gì.
Lời nói sau cùng của các bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Các bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã B, tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà, các bị cáo Nguyễn Chí T và Nguyễn Thị Thu H đã thành khẩn khai nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy như nội dung Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, các tài liệu, chứng cứ thu giữ trong vụ án, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án và các tài liệu, chứng cứ thu giữ trong vụ án, biên bản thu giữ vật chứng. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận:
Để có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng, Nguyễn Chí T và Nguyễn Thị Thu H đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy tại phòng trọ số 04, nhà trọ bà Tư, khu phố 2, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương, cụ thể như sau:
- Khoảng 21 giờ ngày 17/6/2020, Nguyễn Chí T đã có hành vi bán cho Nguyễn Thế K 01 gói ma túy loại Methamphetamine (không rõ trọng lượng) với giá 200.000 đồng.
- Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 18/6/2020, Nguyễn Chí T và Nguyễn Thị Thu H đã có hành vi bán cho Nguyễn Văn Đ 01 gói ma túy loại Methamphetamine (không rõ trọng lượng) với giá 200.000 đồng.
Khoảng 23 giờ ngày 18/6/2020 tại phòng trọ số 04 nhà trọ B, lực lượng Công an thị xã Bến Cát phát hiện thu giữ 05 gói ma túy loại Methamphetamine tổng trọng lượng 0,5758 gam của Nguyễn Chí T và Nguyễn Thị Thu H cất giấu nhằm mục đích bán cho các con nghiện.
Như vậy, Nguyễn Chí T đã thực hiện 02 lần mua bán trái phép chất ma túy loại Methamphetamine cho Nguyễn Thế K và Nguyễn Văn Đ; Nguyễn Thị Thu H đã thực hiện 01 lần mua bán trái phép chất ma túy loại Methamphetamine cho Nguyễn Văn Đ.
Căn cứ Kết luận giám định số 369/MT-PC09 ngày 25/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, xác định: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có trọng lượng: 0,5758 gam, loại Methamphetamine.
Xét lời khai nhận của các bị cáo về hành vi bán ma túy, số lần bán ma túy phù hợp với lời khai của người làm chứng trong vụ án trong quá trình điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử nhận định tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy. Về nhận thức, các bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, các bị cáo biết rõ ma tuý làm huỷ hoại sức khoẻ, làm mất khả năng lao động, học tập, làm cho thần kinh người nghiện bị tổn hại. Các bị cáo lười lao động, muốn có tiền tiêu xài nên đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát truy tố các bị cáo theo tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về vai trò đồng phạm: Các bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn, cố ý cùng thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy để có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng. Các bị cáo có vai trò ngang nhau trong việc trực tiếp thực hiện tội phạm.
Xét về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, các bị cáo không có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, cần cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Việc xử lý bị cáo H phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của bị cáo H về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 khi xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo H.
Đối chiếu với những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt tù có thời hạn, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian không chỉ nhằm trừng trị các bị cáo mà còn giáo dục các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa các bị cáo phạm tội mới; đồng thời có tác dụng giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Do đó, ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, điều khoản, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt và các vấn đề khác đối với các bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Xét đề nghị của người bào chữa cho bị cáo H là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về xử lý vật chứng:
Đối với 03 (ba) Bì thư niêm phong ghi số: 369/M1/PC09, 369M2/PC09 và 369M3/PC09 niêm phong có chữ ký của Nguyễn Chí T, Nguyễn Thị Thu H (người chứng kiến), Nguyễn Thành Tâm (cán bộ giao mẫu), Trần Hoàng Huy (Giám định viên/Trợ lý giám định) và hình dấu đỏ niêm phong của KTHS-Công an tỉnh Bình Dương. Khối M2=0,1624 gam, M3=0,2120 gam loại Methamphetamine; M1 phục vụ hết cho công tác giám định. Đây là vật chứng của vụ án nên cần phải tịch thu, tiêu hủy Đối với 01 (một) bóp thổ cẩm màu đỏ; 01 (một) hộp quẹt diêm và 01 (một) balo màu đen là vật chứng các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, không có giá trị sử dụng nên cần phải tịch thu, tiêu hủy Các đối tượng Nguyễn Văn C, Nguyễn Thế K, Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Khánh L đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 20/7/2020, Công an thị xã Bến Cát đã quyết định xử phạt hành chính phạt tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đối với C, K, Đ và L, là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật.
Quá trình điều tra, Nguyễn Chí T khai, đối với gói ma túy đá mà T bán cho Nguyễn Thế K ngày 17/6/2020 thì H không biết nên Cơ quan Điều tra không xử lý là có căn cứ.
Đối với 02 gói ma túy đá (không rõ trọng lượng) mà K, Đ mua của T và H vào các ngày 17/6/2020 và 18/6/2020, K, Đ và L khai đã sử dụng hết nên Cơ quan Điều tra không thu giữ là đúng quy định pháp luật.
Đối với người thanh niên tên T1 đưa ma túy cho T và H bán, không rõ nhân thân, lai lịch, hiện Cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ, khi xác định được sẽ xử lý sau là có căn cứ.
[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 251; Điều 17; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chí T phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy .
Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí T 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2020.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; Điều 17; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu H phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy .
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2020.
Về xử lý vật chứng:
Tuyên tịch thu tiêu hủy:
03 (ba) Bì thư niêm phong ghi số: 369/M1/PC09, 369M2/PC09 và 369M3/PC09 niêm phong có chữ ký của Nguyễn Chí T, Nguyễn Thị Thu H (người chứng kiến), Nguyễn Thành Tâm (cán bộ giao mẫu), Trần Hoàng Huy (Giám định viên/Trợ lý giám định) và hình dấu đỏ niêm phong của KTHS-Công an tỉnh Bình Dương. Khối M2=0,1624 gam, M3=0,2120 gam loại Methamphetamine; M1 phục vụ hết cho công tác giám định.
01 (một) bóp thổ cẩm màu đỏ;
01 (một) hộp quẹt diêm;
01 (một) balo màu đen.
(Vật chứng được thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát giữa Công an thị xã Bến Cát và Chi cục Thi hành án dân thị xã Bến Cát) Về án phí: Buộc các bị cáo Nguyễn Chí T và Nguyễn Thị Thu H, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo:
Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tòa tuyên án.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo H, người bào chữa cho bị cáo H vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai./.
Bản án 236/2020/HS-ST ngày 20/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 236/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về