Bản án 236/2019/HS-ST ngày 29/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 236/2019/HS-ST NGÀY 29/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 8 năm 2019 tại Tòa án nhân dân thành phố H, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 239/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 7 năm 2019 theo Q định đưa vụ án ra xét xử số 245/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc Q; sinh ngày 20 tháng 7 năm 1979 tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: thôn Tân Tiến, xã L, huyện H2, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: tổ 1, khu 3, phường B, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Bá C (đã chết) và bà: Nguyễn Thị T (đã chết); Chưa có vợ ; có 01 (một) con chung với chị Cao Thị Hải Y; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 1998 bị TAND tỉnh Quảng Ninh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp tài sản côn dân” và 09 tháng tù về tội “Làm nhục người khác”, ngày 02/9/2000 chấp hành xong bản án; Năm 2004 bị tòa Phúc thẩm tại Hà Nội - TAND Tối cao xử phạt 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 10/11/2012 chấp hành xong bản án; Bị bắt, tạm giam ngày 21/5/2019. Có mặt.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1./ Cao Thị Hải Y, sinh năm 1990. Nơi ĐKHKTT: khu 1, phường X, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Chỗ ở: tổ 1, khu 3, phường B, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt, không có lý do.

2./ Nguyễn Đăng C1, sinh năm 1987. Nơi cư trú: tổ 8, khu 1B, phường C2, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt, có đơn xin xử vắng mặt.

* Người làm chứng:

1./ Nguyễn Thái D, sinh năm 1982. Nơi cư trú: tổ 6, khu 4, phường T1, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt, không có lý do.

2./ Nguyễn Anh T2, sinh năm 1986. Nơi cư trú: tổ 7, khu 3, phường H2, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt, không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy, khoảng 22giờ 10phút ngày 21/5/2019 Nguyễn Ngọc Q điều khiển xe môtô Sirius BKS 14B1-075.44 (mượn của chị Cao Thị Hải Y) mang theo ma túy đến khu vực tổ 10, khu 4, phường B, thành phố H tìm nơi sử dụng thì bị công an yêu cầu kiểm tra, bắt quả tang. Nguồn gốc số ma túy trên, Q mua của một thanh niên không quen biết tại khu vực đường Hậu Cần, phường B, thành phố H giá 200.000đ được 01 gói Heroine mục đích sử dụng cho bản thân.

Vật chứng thu giữ: 01 (Một) túi nilon KT khoảng 4x6cm bên trong chứa chất bột màu trắng tại tay trái của Nguyễn Ngọc Q, 01 (Một) xe máy Sirius màu đỏ đen BKS14B1-075.44; ngoài ra thu giữ 01 (một) điện thoại di động Nokia màu đen kèm sim 0934.477.312 của bị cáo.

Kết luận giám định số 407/GĐMT ngày 25/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy; Loại: Heroine; Khối lượng: 0,862gam. Hoàn lại sau giám định: 0,76gam mẫu vật.

Cáo trạng số 185/CT-VKSHL ngày 19/7/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã nêu, việc bị truy tố và đưa ra xét xử là đúng người đúng tội không oan, đã được thực hiện các quyền, nghĩa vụ, giải thích việc công bố bản án theo quy định của pháp luật, chị Cao Thị Hải Y không biết bị cáo dùng xe môtô đi mua ma túy; chiếc điện thoại di động kèm sim là tài sản cá nhân không liên quan đến hành vi phạm tội, bị cáo không có ý kiến gì về tài sản này và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: anh Nguyễn Đăng C1 có lời khai xác nhận năm 2017 anh đã mua xe môtô Sirius màu đỏ đen BKS 14B1-07544 và đăng ký sở hữu mang tên mình, do không còn nhu cầu sử dụng năm 2018 anh đã bán chiếc xe với giá 11.200.000đ và giao đầy đủ giấy tờ sở hữu xe cho chị Cao Thị Hải Y; Chị Cao Thị Hải Y có lời khai thể hiện: khoảng 21giờ ngày 21/5/2019 chị đã cho anh Q mượn xe môtô Sirius màu đỏ đen BKS 14B1-075.44 để đi nhưng không biết việc anh Q dùng xe đi mua ma túy. Nguồn gốc chiếc xe chị mua của anh Nguyễn Đăng C1 vào khoảng tháng 4/2018. Chị đã nhận lại chiếc xe và không có yêu cầu gì khác.

Người làm chứng Nguyễn Thái D và Nguyễn Anh T2 có lời khai thể hiện việc chứng kiến cơ quan công an kiểm tra, thu giữ vật chứng tại tay trái của Nguyễn Ngọc Q. 

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 luật hình sự: xử phạt Nguyễn Ngọc Q từ 18 đến 24 tháng tù, thời hạn tính từ ngày bắt; Căn cứ khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 2, khoản 3 Điều 106 BLTTHS tịch thu, tiêu hủy lượng ma túy hoàn lại sau giám định, trả lại bị cáo chiếc điện thoại di động Nokia màu đen; chiếc xe mô tô đã trả lại chủ sở hữu nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bảo đảm các quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng; không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo về việc tàng trữ trái phép ma túy để sử dụng phù hợp với lời khai của người làm chứng chứng kiến cơ quan công an kiểm tra, thu giữ vật chứng; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 22giờ 35phút ngày 21/5/2019; Kết luận giám định số 407/GĐMT ngày 25/5/2019 và bản ảnh vật chứng.

Như vậy, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22giờ 10phút ngày 21/5/2019 tại tổ 10, khu 4, phường B, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Ngọc Q có hành vi tàng trữ trái phép 0,826gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị công an kiểm tra, thu giữ. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 đến 05 năm:

c. Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[3] Tính chất mức độ, hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vi phạm pháp luật, xâm phạm tới sự độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an địa phương, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác; bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhận thức được tác hại của ma túy; Về nhân thân: đã từng bị Tòa án đưa ra xét xử không lấy đó làm bài học mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nhằm thỏa mãn nhu cầu bất chính của cá nhân thể hiện sự coi thường pháp luật cần xử lý nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hướng xử lý: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bố đẻ bị cáo - ông Nguyễn Bá C được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì là những tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đề nghị áp dụng điều luật và mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[5] Về vật chứng: Lượng ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Chiếc điện thoại di động đã thu giữ là tài sản của bị cáo không liên quan hành vi phạm tội, không phải là vật chứng nên trả lại cho bị cáo; chiếc xe môtô không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án đã trả lại cho chủ sở hữu, HĐXX không xem xét.

[6] Về hình phạt bổ sung: bị cáo không nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Nguyễn Ngọc Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Ngọc Q 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2019.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy 0,76gam mẫu vật hoàn lại sau giám định trong niêm phong số 407/GĐMT ngày 25/5/2019; trả lại bị cáo Nguyễn Ngọc Q 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng.

(Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng số 192/BB-THA ngày 01/8/2019 tại Cơ quan thi hành án dân sự thành phố H).

Căn cứ Điều 331; Điều 333; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo báo quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 236/2019/HS-ST ngày 29/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:236/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về