Bản án 236/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 236/2019/HS-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 14 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 242/2019/TLST- HS ngày 11/10/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 242/2019/QĐXXST- HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

Họ và tên:

 1. Nguyễn Ngọc H; Sinh năm: 1993; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký thường trú: Số X, phường C, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội; Chỗ ở : Số Y, phường C, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ tên cha: Nguyễn Ngọc L; Sinh năm: 1958; Họ tên mẹ: Nguyễn Thúy H; Sinh năm: 1962; Gia đình 3 chị em, bị can là con thứ 3; Vợ: Sái Đình H; Sinh năm: 1993; Có 2 con sinh năm 2012 và sinh năm 2014; Danh chỉ bản số: 390 lập ngày 05/08/2019 tại Công an quận Hoàn Kiếm, Hà Nội TATS: 01 tiền án - Ngày 29/9/2017, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 12 tháng về tội Trộm cắp tài sản, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án. (AS: 200/HSST)- chưa xóa án tích.

Tạm giữ: 30/7/2019 - Tạm giam: 08/8/2019 (Có mặt tại phiên tòa)

 2. Đỗ Minh Đ; Sinh năm: 1999; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký thường trú: Z, phường T, quận Đống Đa, Hà Nội; Chỗ ở: Số N, phường K, quận Long Biên, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ tên cha: Đỗ Văn T; Sinh 1967; Họ tên mẹ: Phạm Kim O; Sinh 1972; Gia đình 2 anh em, bị can là con thứ 2; Danh chỉ bản số: 383 lập ngày 05/08/2019 tại Công an quận Hoàn Kiếm, Hà Nội TATS: không Tạm giữ: 30/7/2019 - Tạm giam: 08/8/2019 (Có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại: Chị Vũ Thị H1, sinh năm 1979; Trú tại: M, phường P, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 8 giờ ngày 29/7/2019, công an phường P, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội nhận được đơn trình báo của chị Vũ Thị H1 (sinh 1979; trú tại: 14 ngõ 383 P, Hoàn Kiếm, Hà Nội) về việc chị bị mất chiếc xe máy nhãn hiệu Wave BKS 29C1-04690 số khung 111083, số máy 291110 khi để tại cửa nhà vào ngày 11/7/2019. Đồng thời chị H1 giao nộp cho công an 01 đoạn clip trích từ camera nhà chị H1 ghi lại hình ảnh đối tượng nam giới trộm cắp chiếc xe máy của gia đình chị và 01 thanh kim loại màu trắng hình chữ T kích thước khoảng 6,5x11cm đường kích 1cm mỗi đoạn có lỗ hổng hình lục giác.

Theo Bản định giá tài sản số 161 ngày 01/8/2019 kết luận: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Wave anpha màu xanh ngọc BKS 29C1-04690 số khung 111083, số máy 2911105 giá trị 10.000.000 đồng.

Sau khi tiếp nhận tin báo Cơ quan điều tra đã tiến hành rà soát các đối tượng liên quan đã xác đinh và triệu tập Nguyễn Ngọc H, Đỗ Minh Đ đến cơ quan làm rõ nội dung đơn tố giác. Ngày 30/7/2019 cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Hoàn Kiếm đã ra lệnh bắt khẩn cấp đối với Nguyễn Ngọc H và Đỗ Minh Đ.

Tạm giữ của Nguyễn Ngọc H: 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung J7 pro màu vàng, mặt kính màu đen, số Imei 1: 356446082480745; imei 2: 356447082480743 kèm sim số 0347417330; 01 thanh kim loại kích thước 6,3 x 4,2 cm (hình chữ L), mỗi đầu thanh 4 cạnh; 01 thanh kim loại màu trắng dài 13,2 cm hình trụ tròn; 01 thanh kim loại có kích thước 13x7,5 cm một đầu có dán băng dính màu đen, một đầu có lỗ hổng hình lục giác; 01 thanh kim loại dài 6,2 cm một đầu lục giác, một đầu dẹt (hai cạnh); 01 chiếc quần đùi màu xanh; 01 BKS 29D2-01161.

Ngày 31/7/2019, Chị Phạm Kim O (sinh: 1972 - trú tại: Số C, phường L, quận Long Biên, Hà Nội) - là mẹ đẻ của Đỗ Minh Đ, đến Cơ quan điều tra giao nộp 01 chiếc xe máy wave màu xanh ngọc không biển kiểm soát, số khung 111083, số máy 2911105 để phục vụ điều tra.

Tại bản giám định 5356 ngày 22/8/2019 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Xe máy nhãn hiệu Honda wave không đeo BKS số khung RLHHC1200BY111083, số máy HC12E-2911105 là số nguyên thủy.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Ngọc H, Đỗ Minh Đ khai nhận: Khoảng 19 giờ 20 phút ngày 11/7/2019, Nguyễn Ngọc H đi bộ quanh các tuyến phố phường P với mục đích trộm cắp tài sản, khi đi H mang theo 01 bộ vam phá khóa (chữ T). Đến khoảng 22 giờ cùng ngày khi H đi bộ đến khu vực số nhà I, P - Hoàn Kiếm phát hiện 01 chiếc xe máy Wave anpha màu xanh ngọc BKS 29C1-04690 không người trông giữ, H dùng vam phá khóa điện xe máy, nổ máy (quá trình đi xe làm rơi mất vam phá khóa chữ T) điều khiển xe đến đoạn chợ Hồng Hà tháo biển kiểm soát và lên cầu Chương Dương ném chiếc BKS này xuống sông Hồng rồi đến nhà Đỗ Minh Đ ở ngõ K, Long Biên, Hà Nội, bán cho Đ với giá 2.000.000 đồng. Do nhà không có chỗ để xe, Đ bảo H mang xe gửi tại bãi xe máy ở phố V (bãi đỗ xe bộ GTVT) còn Đ sẽ đi sang sau. Khi Đ đến bãi xe, H đưa cho Đ 01 vé gửi xe. Do đã từng mua xe máy trộm cắp của H và H chỉ đưa vé xe mà không có chìa khóa, giấy tờ xe cùng với việc H nói “chỉ cần dùng chìa khóa có 2 cạnh là mở được xe”, nên Đ biết đây là xe mà H trộm cắp được. Đến ngày 14/7/2019, Đ cho bạn là “HT” (hiện không xác định được nhân thân) mượn chiếc xe máy nêu trên. Bộ vam phá khóa bị thu giữ là của H dùng để trộm cắp xe máy. Chiếc điện thoại bị thu giữ là tài sản cá nhân.

Ngày 23/9/2019, Cơ quan điều tra đã trao trả cho chị H1 chiếc xe máy Honda wave màu xanh ngọc không BKS số khung 111083 - số máy 2911105. Sau khi nhận lại tài sản chị H1 không có đề nghị gì khác về dân sự. Đối với 01 BKS 29D2-001.61 thu giữ tại nhà của H, H khai đây là nhà trọ H thuê để ở nên không biết chiếc BKS này từ đâu mà có. Qua xác minh BKS trên đăng ký tên ông Trần Tương L (sinh năm 1956 - trú tại F, phường Đ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội), hiện ông L vắng mặt tại địa phương. Chị Trần Thu Mai (sinh năm: 1995- trú tại: số Y, phường Thanh Trì, Hoàng Mai, Hà Nội) là con gái ông L cho biết ông L có đăng ký xe máy Wave BKS29D2-001.61 nhưng do không có nhu cầu sử dụng nữa đã bán từ lâu và hiện không biết ai là người sử dụng chiếc xe máy nêu trên. Cơ quan điều tra đã tra cứu BKS 29D2-01161 không có trong dữ liệu xe vật chứng.

Tại bản cáo trạng số 223/CT-VKS ngày 09/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm truy tố Nguyễn Ngọc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; truy tố Đỗ Minh Đ về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, các bị cáo khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra và công nhận nội dung bản cáo trạng đã truy tố các bị cáo là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, sau khi phân tích tính chất hành vi của các bị cáo giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị kết tội bị cáo Nguyễn Ngọc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS; kết tội bị cáo Đỗ Minh Đ về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 BLHS. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo H mức hình phạt từ 20 tháng tù đến 24 tháng tù; áp dụng khoản 1 Điều 323, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo Đ mức hình phạt từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy tang vật thu giữ, sim điện thoại. Tịch thu sung công chiếc điện thoại Samsung J7 pro màu vàng.

Không áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàn Kiếm, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Kiểm sát viên: trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng. Cùng tang vật thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 22 giờ ngày 11/7/2019, tại I, phường P, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội; Nguyễn Ngọc H đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc Wave anpha màu xanh ngọc BKS 29C1- 04690 giá trị 10.000.000 đồng của chị Vũ Thị H1, sau đó đến số C, phường L, quận Long Biên, Hà Nội bán cho Đỗ Minh Đ với giá 2.000.000 đồng. Khi mua chiếc xe máy trên Đ biết đây là tài sản do H trộm cặp được.

Hành vi của bị cáo H đã phạm tội "Trộm cắp tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015. Hành vi của bị cáo Đ đã phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 BLHS 2015.

[3] Trách nhiệm hình sự và hình phạt:

Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội. Do vậy, cần thiết phải áp dụng hình phạt tù giam cách ly các bị cáo trong một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo cũng như phòng ngừa chung.

Các bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Nhân thân bị cáo H có 1 tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa, thể hiện bị cáo đã được giáo dục nhưng không lấy đó làm bài học để sửa chữa sai lầm mà vẫn tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này được tính là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Tuy nhiên các bị cáo khai báo thành khẩn, bị hại đã được nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác, bị cáo Đ chưa có tiền án tiền sự, vì vậy có thể xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt theo qui định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5]. Về dân sự: Bị hại là chị Vũ Thị H1 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm đối với các bị cáo nên Toà án không xem xét.

[6] Xử lý tang vật, án phí và quyền kháng cáo:

- 05 thanh kim loại thu giữ, 01 chiếc quần đùi màu xanh cần tịch thu tiêu hủy theo qui định tại điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- 01 BKS 29D2-01161 thu giữ của bị cáo là biển số được cơ quan có thẩm quyền cấp, cơ quan điều tra đã tra cứu không có trong dữ liệu xe tang vật, tuy nhiên biển kiểm soát trên không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Điện thoại di động Samsung J7 pro màu vàng liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu sung công quỹ nhà nước.

- Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm - Các bị cáo, bị hại được kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật

 Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: - bị cáo Nguyễn Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- bị cáo Đỗ Minh Đ phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

2. Áp dụng:

+ khoản 1 điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; (đối với bị cáo H)

+ khoản 1 Điều 323; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; (đối với bị cáo Đ)

+ Điều 46, 47 Bộ luật hình sự, Điều 106, 135, 331, 333 - Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

+ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án,

 3. Xử phạt: - bị cáo Nguyễn Ngọc H 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/7/2019.

- bị cáo Đỗ Minh Đ 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/7/2019.

Không áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo theo khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

4. Tang vật:

- Tịch thu tiêu hủy: + 01 (một) thanh kim loại kích thước 6,3cm x 4,2cm, hình chữ L, mỗi đầu thanh 4 cạnh.

+ 01 (một) thanh kim loại màu trắng, hình trụ tròn, dài 13,2 cm.

+ 01 (một) thanh kim loại kích thước 13 cm x 7,5 cm, một đầu dán băng dính màu đen, một đầu có lỗ hổng hình lục giác.

+ 01 (một) thanh kim loại dài 6,2 cm, một đầu lục giác, một đầu dán băng dính màu đen, một đầu có lỗ hổng hình lục giác.

+ 01 (một) chiếc quần đùi màu xanh.

+ 01 (một) thanh kim loại hình chữ T màu trắng, kích thước 6,8 cm x 11 cm.

+ 01 (một) sim điện thoại.

+ 01 biển kiểm soát 29D2-011.61 - Tịch thu sung công 01 điện thoại Samsung Galaxy J7 pro màu vàng IMEI 1:356446082480745, IMEI 2: 356447082480743 (Tang vật hiện giữa tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm theo biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 23/10/2019)

 5. Án phí, quyền kháng cáo:

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 236/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:236/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về